Ông
già nói thêm câu cuối cùng để kết thúc chuyện, trả lại không gian một
khoảng lặng trong buổi chiều hanh vàng. Nguyên đang ngồi trong căn nhà
sàn rộng thênh thang, có lẽ là ngôi nhà bề thế nhất ‘phum’ này. Từ trong
nhà nhìn xuống sân có cái giếng nước ngay trước cổng, buổi chiều những
người trong nhà và cả hàng xóm đều ra tắm nơi cái giếng này.
- Một cái giếng rất tốt, ông tự hào nói.
Hiện
tại anh nhìn thấy hai cô gái với mấy đứa nhỏ đang tắm ở đó. Họ tự nhiên
cởi áo vắt trên cái hàng rào bằng cây dâm bụt, phía dưới người họ quấn
một tấm khăn gọi là ‘xà-rông’, thường dài đến đầu gối hoặc hơn, rồi
thoải mái múc từng gàu nước dội lên người.
Quang cảnh trông vui
mắt và vui tai; tiếng nước chảy và tiếng chuyện trò liếng thoắng của các
cô gái nghe mát rượi. Anh cảm nhận được sự thanh bình muôn thuở bàng
bạc trong cuộc sống dân dã ở bất cứ đâu, dù ở đây chiến tranh đang quanh
quẩn thật gần.
Phía sau nhà, cách độ ba bốn căn nhỏ hơn, có thể
nhìn thấy một cái ao khá rộng trồng đầy sen, nước xanh ngắt, có một cái
cầu gỗ đơn giản bắc từ bờ ao xuống tới mặt nước. Bên trái ao là con
đường đất quanh co bên hàng cây thốt nốt dẫn đến ngôi chùa nhỏ trong
‘phum’, cũng núp bóng dưới mấy tàn cây thốt nốt.
- Đó là ao của
chùa, cũng là ao làng, ông già nói, - để dành nước cho dân gánh về dùng
hoặc ra đó vo gạo, rửa rau, không được tắm giặt.
Ở xứ này làng nào
cũng có một ngôi chùa, và chùa nào hầu như cũng có một cái ao. Chính cái
ao này là nơi diễn ra câu chuyện lý thú về ngôi chùa mà Nguyên được
nghe kể.
Chùa Vàng trong ráng chiều
|
Nguyên
đã có lần tò mò đến quan sát ngôi chùa này vào một buổi chiều nhá nhem
tối. Ngôi chùa nhỏ như một ngôi nhà bình thường, xây gạch trên nền đất
chứ không nằm trên sàn gỗ như đa số nhà dân. Nó khác nhà dân nhờ có lớp
mái ngói cao vút, trang nghiêm với những đường chạm trổ tỉ mỷ. Nhìn vào
bên trong, chùa tối lờ mờ. Có một ông sư già ngồi trên cái ghế đong đưa
hình như bằng mây. Chánh điện nhỏ, đơn giản với cái khám thờ xây bằng
gạch ở giữa, trên có một tượng Phật ngồi bằng đá trắng mờ. Pho tượng
trông cứng ngắc và lạnh băng trước hàng đèn nhỏ đang cháy leo lét. Không
thấy có bông hoa hay trái cây dâng cúng như ở các chùa Việt Nam. Nhìn
cách thờ tự đơn sơ mà trang nghiêm, tự nhiên Nguyên thấy có cảm tình.
Hôm
đó anh nhìn thấy hai phụ nữ lớn tuổi vào thăm nhà sư. Một bà đã vào
trước khi anh đến, đang dâng cúng sư một đĩa phẩm vật gì đó, rồi quỳ
xuống chắp tay cung kính đảnh lễ ông ba lạy. Lạy xong bà đứng dậy, vẫn
chắp hai tay, từ từ bước thụt lùi một đoạn rồi mới quay người đi ra. Đến
lượt bà thứ hai vào, hai tay bưng một cái bát to bằng bạc trên có nắp
đậy. Không thấy ai nói gì trong cái không gian trầm lặng ấy.
- Nhưng dân làng ở đây có vẻ nghèo. Họ lấy gì cúng dường sư tăng? Nguyên hỏi ông già.
Ông
nói, - Có gì đâu, mấy củ khoai luộc, một khúc cá kho hoặc chiên, một tô
canh, hay có khi chỉ là vài cục đường thốt nốt, cái khăn mặt, tuýp kem
đánh răng… Nhưng tất cả chắc chắn đều là những thứ tốt nhất mà họ có để
dành mang lên cúng chùa. Họ rất kính trọng mấy ông thầy tu… Nói đến đây,
ông già nhớ đến một chuyện liên quan tới ngôi chùa. Câu chuyện như một
huyền thoại khiến ông cao hứng nói tiếp, giọng sôi nổi hẳn.
- Để
tôi kể chú nghe chuyện của ông sư trụ trì trước của chùa này, để chú
thấy dân làng họ kính trọng và đối xử với các nhà tu như thế nào. Lúc ấy
tôi vừa chuyển đến đây mới được một, hai tháng…
Ông với tay lấy
bịch thuốc rê, chậm rãi vấn một điếu trông thật khéo rồi châm lửa,
khoan thai nhả ra một làn khói trắng mù mịt. Khói thuốc hăng hăng trộn
lẫn mùi ngai ngái của phân bò, mùi đất ẩm man mát, tạo thành cái mùi đặc
dị của ngôi nhà này mà lúc mới đến Nguyên đã nhận ra ngay. Tuy lạ nhưng
cũng khá dễ chịu. Nguyên không biết ông già đang kéo dài thời gian để
nhớ lại câu chuyện, hay để thưởng thức nó.
- Ông sư trụ trì
trước, ông kể, chú biết không, trẻ hơn ông bây giờ một chút, nhưng cũng
rất được trọng vọng. Việc làng có gì cần phân xử hay quyết định đều qua
thưa với ông. Dân làng rất quý mến ông, họ đến chùa thường xuyên, có
việc gì trong nhà cũng đem ra giãi bày, hỏi ý ông. Đùng một cái, nghe
nói có người phát hiện ông phạm giới với một phụ nữ trong làng. Phép ở
đây, người ta rất trọng sư, cho nên cũng đòi hỏi rất nhiều nơi mấy ổng.
Trường hợp như vậy sẽ bị Tăng đoàn khai trừ, đuổi khỏi chùa, chỉ còn
nước bỏ làng đi nơi khác. Nhưng ông sư này được dân làng thương mến,
kính trọng, không muốn xa ông. Họ muốn che chở ông, miễn là ông nhìn
thấy tội lỗi, có quyết tâm từ bỏ nó. Không biết sau đó Tăng đoàn theo
phép nhà Phật đã xử trị ông thế nào, hay là tội của ông được dân bao che
sao đó, nên ông không bị đuổi đi, mà chỉ bị phạt. Hình phạt gì chú biết
không? Cũng không phải là những hình phạt nặng nề gay gắt, thường làm
mất thể diện như ngoài đời. Ông vẫn ở chùa, vẫn mặc áo thầy tu, ra vào
âm thầm như chiếc bóng. Chỉ để ý kỹ mới nhận thấy ông không ở trên chánh
điện như trước mà thường ở chái nhà sau chùa, mỗi ngày đôi ba bận ông
chỉ lên chánh điện thắp nhang, đốt đèn, và sớm tối vẫn còn nghe tiếng
tụng kinh rì rầm của ông. Sau đó thấy dân làng lăn ở đâu ra hai cái chum
bự chảng đặt bên hông chùa, loại chum cỡ như chú có thể chui lọt trong
đó được, mà các nhà đông người vẫn dùng để trữ nước uống. Hai cái chum
đó bây giờ vẫn còn bên chùa, bữa nào chú qua xem. Tôi hỏi thăm thì làng
nói để cho ông sư gánh nước về đổ vô. Chú thấy lạ không? Chùa chỉ có một
ông sư thì cần gì chứa nước nhiều thế! Chùa lại không có bếp vì chẳng
nấu ăn, mấy sư chỉ ăn ngày hai bữa sáng trưa, bằng đồ khất thực hay do
dân làng cúng dường. Hồi đó tôi thắc mắc việc này lắm, và muốn té ngửa
khi thấy làng làm cho ông một cái đòn gánh hai đầu treo lủng lẳng hai
chai dầu ‘nhị thiên đường’ nhỏ hơn ngón tay út. Chắc chú biết chai dầu
nhị thiên đường chớ? Họ giải thích, chừng nào ông gánh nước về đổ đầy
hai cái chum này, thì có thể rửa sạch tội đã phạm! Chú tính thử coi đến
chừng nào? Tôi nghe mà rùng mình. Nước trong hai chai dầu nhị thiên
đường đó đổ vô hai cái chum, rồi trở ra ao để gánh đôi khác về, thì chưa
đủ cho nó bốc hơi dưới cái nắng chang chang của xứ sở này. Thật là một
dân tộc lạ lùng…, và thông minh, ông nói thêm.
- Họ không muốn
trừng phạt ông. Họ chỉ muốn ông nghiền ngẫm những điều đã phạm. Cái tình
đó coi vậy còn nặng hơn hình phạt phải bỏ chùa. Nhưng ông sư đã chọn nó
để ở lại với dân, hay để nung nấu quyết tâm từ bỏ chuyện cũ, mình không
biết được. Nghe đâu hai năm sau thì ông ‘hết tội’. Những người biết
chuyện trong làng nói với nhau: không biết do ông đã gánh đủ nước để rửa
sạch nó, hay do hạnh nhẫn nhục, lòng can đảm đối diện trước sự toàn
khuyết của giới hạnh mình, đã khiến một đêm trời mưa to đến sáng mà ai
đó đã bí mật nhích mở hai cái nắp chum để giữa trời.
- Hai cái chum đã đầy nước. Và dân làng đã chấp nhận.