Theo tuệ giác của
Đức Thế Tôn thì các vấn đề xảy ra trong đời sống này đều có nhiều yếu tố
kết hợp lại mà thành, gọi là duyên khởi. Nghĩa là, không có cái duy nhất sinh ra vạn vật mà tất cả mọi thứ đều phải tùy thuộc vào nhau để sinh khởi (Cái này có thì cái kia có/Cái này không thì cái kia không/Cái này sinh thì cái kia sinh/Cái này diệt thì cái kia diệt).
Cái này liên hệ tương quan tương duyên tới cái kia, không có cái kia
thì sẽ không có cái này. Sở dĩ có cây lúa là vì có hạt lúa, và ngược lại
hạt lúa có mặt là nhờ vào cây lúa. Giữa hạt lúa và cây lúa có mối liên
hệ hỗ tương cho nhau, không thể tồn tại riêng lẻ. Mặt khác, cây lúa
không thể tự nó sinh ra hạt lúa mà phải nhờ vào đất, nước, không khí,
ánh sáng mặt trời, v.v… thì hạt lúa mới hiện hữu. Đây chính là chuỗi vận
hành tương giao và tương tức của sự sống, mà mỗi người cần phải suy
nghiệm, quán chiếu để thấy ra sự thật mầu nhiệm này. Và nếu bạn thấu
hiểu được đạo lý này thì khi có vấn đề không tốt xảy ra, bạn sẽ không
còn đổ lỗi hay oán trách cho bất cứ một ai.
Thực tế cho thấy, trong các mối quan hệ trong xã hội đa phần khi có những khó khăn trắc trở xảy ra người ta thường hay
tránh né và đổ lỗi cho một ai đó. Người nào cũng cho mình là đúng, chứ
không chịu nhìn lại để thấy rõ gốc rễ của vấn đề, cho nên dẫn đến việc
tranh cãi gay gắt và tạo ra sự xung đột bất hòa! Chính vì ta thiếu sáng
suốt không thấy rõ tính chất cộng sinh và tương giao trong cuộc sống,
nên khi làm ra một sản phẩm có giá trị nào đó được nhiều người hưởng ứng
thì bản ngã tham vọng lên cao và hãnh diện về thành quả cho là mình tạo
ra. Nào ngờ đâu sự thành công ấy có biết bao nhiêu điều kiện tương tác
hỗ trợ mới được hình thành. Đơn cử trong một công ty, nếu vị giám đốc
không có trợ lý, nhân công, bảo vệ, thậm chí không có những người làm
công tác tạp vụ vệ sinh, v.v… thì thử hỏi công ty ấy có hoạt động được
không? Mặt khác, nếu vị giám đốc thiếu khả năng chiêm nghiệm, quán chiếu
và lắng nghe ý kiến góp ý của người khác mà tự mình quyết định thì đến
khi kế hoạch không thành, chắc chắn ông ta sẽ bị nhiều người khiển trách
và phê phán. Thế mới biết mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ mật
thiết, nên Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này Hiền giả! Ví như hai
bó lau dựa vào nhau mà đứng… nếu một bó lau được kéo qua (một bên), bó
lau kia liền rơi xuống. Nếu bó lau kia được kéo qua (một bên), bó lau
này liền rơi xuống” (Kinh Tương ưng bộ II, tr.203).
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian
này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình
như hai bó lau. Sự thành công của một doanh nghiệp cũng không khác, đòi
hỏi phải có nhiều bàn tay đóng góp vào mới dễ bề thành tựu. Nếu như các
vị lãnh đạo biết vận dụng cái nhìn duyên khởi, không quyết định sự việc
có tính chất cá nhân độc đoán, không cho mình là người tài giỏi hơn kẻ
khác mà biết lắng nghe nhau, thì các thành viên trong doanh nghiệp ấy sẽ
truyền thông tốt đẹp, tạo ra không khí thâm tình, đầm ấm như anh em
trong một nhà. Và dĩ nhiên, năng lượng làm việc sẽ tích cực hăng say hơn
và kết quả cũng đạt được cao hơn. Đây chính là đạo lý thâm sâu, thiết
thực đối với đời sống con người cho nên Đức Phật dạy: “Này Ananda, giáo
pháp Duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy. Này Ananda, chính vì
không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị
rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và
lau sậy babaja (ba-ba-la) không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ,
sanh tử ” (Kinh Trường bộ I, tr.512).
Sống đúng theo nguyên lý duyên khởi thì chúng ta có
được an vui hạnh phúc mà không buồn phiền, oán giận với bất cứ một ai.
Thế nhưng, hiếm người biết sống tùy thuận theo nguyên lý tất yếu này, mà
đa phần là thuận theo bản ngã tham sân si. Ta muốn có danh tiếng địa vị
trong xã hội, thích được người khác ngợi khen, kính nể và tôn sùng…
nhằm thỏa mãn tính tham vọng muôn thuở của kiếp người. Thực ra, những tư
tưởng này biểu hiện là do ta sống trong thất niệm vô minh, không rõ
biết mình đang làm gì, không có mặt trọn vẹn với cái thực tại đang là,
cho nên tâm trí trở nên rối ren như ống chỉ, rối loạn như tổ kén
là lẽ đương nhiên. Và một khi tâm hồn bị che đậy bởi vô minh tham ái
thì khả năng thấy biết bị giới hạn, do đó ta không đủ tự tin và hiểu
biết để giải quyết các vấn đề khó khăn đang mắc phải trong cuộc sống.
Như lời Đức Thế Tôn đã dạy, không có cái duy nhất
sinh ra vạn vật. Vậy thì nỗi buồn, cơn giận cũng không ngoại lệ. Nếu ai
đó mạt sát bạn thì với cái nhìn duyên khởi bạn không thể trách cứ họ, vì
đằng sau những lời chỉ trích thô tháo ấy có biết bao là điều kiện
nhân-duyên-quả tương tác vận hành và hội tụ. Có thể tiêu cực ấy một phần
do sự trao truyền của cha mẹ, anh chị em, hoặc họ bị ảnh hưởng bởi bạn
bè, hoàn cảnh chung quanh tưới tẩm hạt giống bất thiện mỗi ngày, cho nên
hôm nay người ấy hành xử khiếm khuyết như vậy. Nếu nhìn sâu hơn bạn sẽ
thấy họ là một nạn nhân kém phần may mắn, không đủ duyên lành để học hỏi
đạo lý như bạn. Vì vậy, bạn không thể để tâm hờn trách mà trái lại cần
phải đem lòng thương yêu giúp đỡ họ. Mặt khác, nỗi buồn, cơn giận khổ
đau chỉ biểu hiện khi bạn muốn chống lại hoặc tránh né hiện thực ấy mà
thôi. Vì có khi, hai người cùng nghe một câu nói như nhau, nhưng người
biết tu tập hiểu được đạo lý duyên khởi thì an lạc và tự tại, còn kẻ
thiếu hiểu biết chắc chắn sẽ phản ứng lại quyết liệt hoặc âm thầm cấu
kết với người khác để hãm hại đối phương. Lối hành xử như thế không đem
đến lợi ích cho cả hai phía, mà trái lại tạo thêm nghiệp quả bất hạnh về
sau, cho nên Đức Phật dạy: “Đem thù đến trả thù, mình người đều đau khổ, từ bi thắng hận thù, an lạc tận ngàn thu” là vậy.
Để cho tâm hồn trong sáng như một tấm gương, nhằm
thấy rõ được mọi vấn đề tương giao vốn dĩ trong cuộc sống, đòi hỏi ta
phải biết nhìn lại chính mình, trở về tiếp xúc với thực tại đang là, chứ
không phải sẽ là hoặc phải là. Vì sẽ là chính là ước hẹn sự sống ở tương lai, còn phải là
tức là cố gắng tạo tác lăng xăng của bản ngã, muốn mọi việc trên đời
này đều thuận theo ý mình, có thể nói đây là căn bệnh khó chữa ở nơi mỗi
con người. Để trị liệu thói quen này thì trong khi đi đứng, nằm ngồi,
làm việc… bạn chỉ cần nhận diện rõ về các động dụng nơi thân tâm mình và
hoàn cảnh đương tại trong sự tỉnh thức trọn vẹn mà tâm không dao động
và xao lãng thực tại đang là, thì cái thấy biết trùm khắp tức thời hiện
hữu, trong Thiền tông gọi là “Tâm địa nhược thông huệ nhật tự chiếu” (Nếu tâm địa được thông thì mặt trời trí huệ tự nhiên chiếu sáng – Phật học phổ thông, tr.51).
Cũng giống như tấm gương, nếu ta không xê dịch qua lại hoặc không để
bụi bám vào thì nó sẽ phản chiếu các hình ảnh một cách rõ ràng đúng như
thực.
Như vậy, tâm định tĩnh và sáng suốt là vấn đề chính yếu để nhận ra
được mọi lĩnh vực của cuộc sống, nghĩa là bạn hiểu rõ tính chất trùng
trùng duyên khởi của các pháp. Từ đó, cái nhìn của bạn vượt thoát thời
gian và không gian; không còn bắt chước rập khuôn theo các chủ trương
hoặc triết thuyết nào cả. Bạn tự do khám phá và tiếp xúc với sự sống mới
mẻ đang diễn ra trong phút giây thực tại. Và khi ấy, cho dù có nhiều
chuyện trắc trở éo le xảy đến, bạn vẫn đầy đủ sự trầm tĩnh, sáng suốt và
nhạy bén để ứng xử với thái độ an bình và tự tại, mà không tỏ ra lo sợ,
tránh né hoặc tìm cách trừng phạt đối phương để bảo vệ danh dự, uy tín
theo lối mòn phản kháng xưa nay của bản ngã.
Viên Ngộ
(Nguyệt San Giác Ngộ)