Người xuất gia Phật giáo ở thời kỳ đầu, trong trào
lưu chung của các phong trào Sa-môn thịnh hành vào thế kỷ thứ VI trước Tây
lịch, thể hiện là một cộng đồng của những người xuất thế, trong ý nghĩa rằng họ
đang đi theo con đường giải thoát với điều kiện căn bản đầu tiên là phải thoát
khỏi những trói buộc của đời sống gia đình và xã hội.
Gia đình, tài sản và những thứ sở hữu khác nhau, theo cái nhìn của Phật giáo cũng như những
phong trào Sa-môn đương thời, là những ràng buộc và không giúp cho hành giả tự tại trong con đường thực hiện
đời sống tâm linh. Vì thoát khỏi
những thứ này không phải ai cũng có thể làm được, nên khi người nào thực hiện được điều này, họ trở nên cao quý giữa một cộng
đồng xã hội đang lao chen để tìm kiếm, giành giật cũng như hưởng thụ những điều nói trên. Do đó, không chỉ
riêng Tăng sĩ Phật giáo, mà tất cả những du tăng và ẩn sĩ của các tôn giáo và bộ phái ở Ấn Độ, chưa nói đến vấn
đề đã đạt được những sở đắc tâm linh
hay những sở chứng gì, nếu sống được trọn vẹn hay một phần nào theo được những tiêu chuẩn đó, sẽ luôn được người dân
kính ngưỡng.
Vì không sở hữu và thực hành sự xả bỏ được coi là
một phẩm hạnh cao thượng, bên cạnh việc thực hiện những phương pháp tu tập miên
mật, cũng như việc dành trọn đời sống cho con đường tâm linh, người tu sĩ nói
chung đã trở thành thành phần tối ưu và cao hơn tầng lớp thế tục, ít nhất là về
phương diện đạo đức. Và vì vậy họ trở thành những tấm gương sáng cho những
người thế tục noi theo và nương tựa.
Vì người tu sĩ đã từ bỏ đời sống gia đình và những
ràng buộc xã hội cũng như không được phép lao động để tạo ra của cải vật chất,
do đó việc duy trì đời sống vật lý của họ phải nương nhờ vào người tại gia
ngang qua việc khất thực. Nhưng trong quan hệ hỗ tương, việc khất thực không
chỉ là việc đem lại lợi ích cho một phía, mà cùng lúc đem lại sự lợi ích cho cả
hai: người xuất gia nhận phẩm vật để nuôi dưỡng thân mạng, người tại gia nhận
lấy những lời khuyên bảo về đạo đức và những phương thức phát triển đời sống
tâm linh để nuôi dưỡng đời sống tinh thần. Trong xã hội Ấn cổ đại, việc có mặt
của một cộng đồng xuất gia chơn chánh được xem là cần thiết cho việc duy trì sự
an bình của xã hội. Ví dụ trong kinh Đại Niết-bàn, Đức Phật nói rằng một
trong những yếu tố giúp cho một xứ sở thịnh vượng và yên bình là sự có mặt
thường xuyên của những người xuất gia.
Như vậy có thể thấy, trong Phật giáo thời kỳ đầu,
mối liên hệ “xã hội” giữa Tăng sĩ và cư sĩ chính yếu thông qua hai vấn đề then
chốt: khất thực xin ăn và thuyết giảng giáo pháp. Hẳn nhiên là không phải chỉ
thuyết giảng trong lúc khất thực mà cũng thuyết giảng bất cứ lúc nào khi có
người cần đến. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, việc khất thực tạo nên mối liên
kết theo chiều hướng tích cực chỉ khi người Tăng sĩ có đầy đủ phẩm hạnh để gia
cố niềm tin nơi người tín đồ, và tạo được niềm tin nơi những người chưa có niềm
tin. Nói cách khác, việc khất thực và thuyết giảng đó phải không làm mất
"cảm tình" nơi những người chưa có niềm tin, và không làm lung lay
niềm tin nơi những người đã có niềm tin vào Tam bảo.
Tuy nhiên nếu mối liên hệ xã hội giữa Tăng sĩ và cư
sĩ chỉ được thiết lập qua việc khất thực không thôi, mà không có thêm những yếu
tố khác, thì niềm tin của người tín đồ tại gia vào tôn giáo của họ sẽ dễ bị
phai mờ khi người tu sĩ không tạo ra được sự gắn kết qua việc khất thực và
thuyết giảng.
Cần phải thừa nhận rằng, so với Kỳ-na giáo, mối liên
hệ giữa Tăng sĩ và cư sĩ trong Phật giáo thời kỳ đầu rất lỏng lẻo, và được xem
là thiếu tính hữu cơ(1). Tăng đoàn Phật
giáo thời kỳ đầu, chỉ bao gồm hai chúng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Từ Sangha
được hiểu trong Phật giáo thời kỳ đầu, là chỉ cho cộng đồng những người xuất
gia mà không chỉ cho những người tại gia. Điều này khác với Kỳ-na giáo, khi
Tăng đoàn (Sangha) của họ là một sự liên kết hữu cơ của hai thành phần xuất gia
và tại gia(2).
Trong Phật giáo, một người khi muốn trở thành một
người xuất gia, họ phải thực hiện một nghi lễ gia nhập vào Tăng đoàn (Sangha-diksha).
Trong khi đó không có một Sangha-diksha cho một người tham gia vào Tăng
đoàn nhưng không muốn trở thành một người xuất gia. Nói khác đi, hàng cư sĩ
trong Phật giáo thời kỳ đầu chỉ thuộc thành phần “ngoại biên”, nếu thấy hàng
Tăng sĩ xứng đáng thì họ cúng dường để tạo phước, còn nếu không thì từ chối
cúng dường, mà không quan tâm đến việc hưng thịnh của Phật giáo như thế nào.
Đây hẳn là một sự thiếu sót to lớn đã khiến cho giới cư sĩ Phật giáo thiếu
trách nhiệm đối với tôn giáo của họ. Khi một người tham gia vào tôn giáo nhưng
lại không có những điều tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa họ với tôn giáo họ
theo, người ta dễ dàng từ bỏ tôn giáo đó để theo một tôn giáo khác, hoặc thậm
chí cùng một lúc theo hai tôn giáo khác nhau. Điều này hiện vẫn đang xảy ra đối
với Phật tử tại gia ở Ấn và ở cả một số nước khác. Lễ thọ Tam quy Ngũ giới
(tại một số nước) về sau là một sự bổ
sung cho sự thiếu vắng vấn đề quan trọng này, nhưng nói chung nghi lễ thọ Tam
quy vẫn chưa đủ mạnh để “giữ chân” các tín đồ.
Tầng
lớp tu sĩ, vì nắm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tôn giáo, vì thế cũng đóng
vai trò chính về sự thịnh suy của tôn giáo mà họ đang thực hành; và điều này
được thể hiện rõ nét trong lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ cũng như Phật giáo ở những
nước khác. Những thời kỳ thịnh trị của Phật giáo Ấn Độ và ở những xứ sở khác,
thường được phác vẽ như là thời kỳ xuất hiện nhiều vị thánh tăng, hay có người
xuất gia tu tập đông đảo; hoặc đôi khi là thời có nhiều chùa tháp được xây dựng
và cộng đồng Tăng-già được hàng vua chúa ủng hộ. Hẳn nhiên là đôi khi chúng ta
thấy người cư sĩ đã giữ vai trò quan trọng trong việc làm hưng thịnh Phật giáo, nhưng những người cư sĩ
đó phần lớn là những vị vua chúa hỗ trợ cho Tăng đoàn những điều kiện vật chất để họ phát triển việc
truyền đạo hay xây dựng cơ sở tôn giáo. Chúng ta thấy rằng, những thời Phật
giáo được vua chúa ủng hộ, thì việc ủng hộ của họ chính yếu là hỗ trợ đời sống
Tăng sĩ và xây dựng chùa chiền, mà ít khi chú ý đến việc phát triển một cộng đồng Phật tử tại gia đông về số
lượng và tốt về phẩm chất. Phải chăng người ta nghĩ, khi có được một cộng đồng
Tăng lữ đông đảo, chùa chiền mọc lên khắp nơi, thì Phật giáo cũng theo đó được hưng thịnh?
Như
đã nói ở trên, vì mối liên hệ giữa Tăng sĩ và cư sĩ trong Phật giáo thời kỳ đầu
được thiết định chủ yếu qua mối liên hệ giữa việc khất thực và thuyết giảng giáo
pháp, nên khi mối liên hệ này không được duy trì thì cộng đồng Phật giáo đã bị
tách rời. Ví dụ sau thời vua Ashoka, khi cộng đồng Tăng lữ không còn chú trọng
vào việc đi khất thực, giới hạn đời sống ở trong chùa viện(3), đã dẫn đến một sự phân rẽ sâu sắc giữa
hai chúng xuất gia và tại gia, điều được tin là một trong các nguyên nhân dẫn
đến sự xuất hiện của Phật giáo Đại thừa(4).
Lại
nữa, một trong các nguyên nhân được cho là góp phần đưa đến sự suy tàn Phật
giáo ở Ấn Độ là việc các Tăng sĩ đã không làm sanh khởi được niềm tin nơi người
chưa có niềm tin, và làm lung lay niềm tin hoặc làm mất luôn niềm tin nơi những
người đã có niềm tin. Như chúng tôi vừa nói, bởi vì các Tăng sĩ giữ vai trò
chính yếu trong cộng đồng Phật giáo, và người cư sĩ chỉ giữ vai trò thứ yếu,
nên khi cộng đồng xuất gia có những biến thái đưa đến sự suy thoái về phẩm hạnh
sống, hoặc không làm cho Phật giáo có thể thích ứng được với đời sống, thì Phật
giáo liền nhanh chóng bị đánh mất vị trí, trong khi giới cư sĩ giống như những
người ngoài cuộc đứng nhìn sự việc.
Chúng
ta có thể thấy rằng, người cư sĩ Phật giáo có những tác động nhất định nào đó
đến đời sống các Tăng sĩ, chẳng hạn như có thể “kiểm soát” được các Tăng sĩ qua
việc chấm dứt sự hỗ trợ cúng dường. Điều này có thể nhìn thấy ở câu chuyện xảy
ra tại Kosambi(5). Tuy nhiên, việc “chế
tài” của hàng cư sĩ có thể giúp cho đời sống của Tăng sĩ tốt hơn ở một góc độ
nào đó, nhưng trong lịch sử, người cư sĩ hầu như đã không đứng riêng độc lập để
thực hiện vai trò giữ đạo và truyền đạo, thậm chí đôi khi là giữ đạo và truyền
đạo trong phạm vi gia đình. Nói cách khác, người cư sĩ Phật giáo có thể góp
phần duy trì Tăng đoàn, nhưng hầu như hiếm khi nhiệt huyết trong việc duy trì
và truyền bá Phật pháp. Tất nhiên sẽ có người nói, duy trì Tăng đoàn cũng là
duy trì Phật pháp rồi. Nói như vậy cũng đúng, nhưng đó là duy trì qua vai trò
của người khác.
Chúng
ta thấy ngay những vị vua Ấn Độ có tâm với Phật giáo như Ashoka và Kanishka,
vẫn không thể tách rời độc lập để phát triển Phật giáo, mà họ phải phát triển
Phật giáo thông qua vai trò của những vị Tăng. Các tông phái triết học hay các
bộ phái Phật giáo đều được khởi xướng và thiết lập bởi các Tăng sĩ. Nhưng điều
này cũng tất yếu thôi, bởi Tăng sĩ được xem là đại diện cho Đức Phật, thực
hành, truyền bá và giữ gìn Phật pháp ở cõi đời này, và cuộc đời của họ dành
riêng để thực hiện việc đó. Trong khi người cư sĩ còn phải thực hiện những
trách nhiệm gia đình và xã hội khác.
Phật
giáo Đại thừa đã thực hiện một sự thay đổi mạnh mẽ khi nâng cao vai trò của
người cư sĩ lên thêm một bậc. Và trong một số trường hợp, người cư sĩ đã trở
thành những người thuyết giảng và hướng dẫn cho các vị Tăng. Ví dụ như trong
kinh Duy Ma Cật, Trưởng giả Duy Ma Cật là một cư sĩ tại gia, nhưng đã
thuyết giảng cho những vị xuất gia khác. Bỏ qua vấn đề đúng sai, bản kinh này
là sự thể hiện khát vọng muốn đưa Phật giáo ra khỏi đời sống tu viện và nên
được thực hiện trong đời sống xã hội hàng ngày, và cũng thể hiện sự khát vọng
của một bộ phận nào đó, muốn người cư sĩ giữ vai trò quan yếu hơn trong việc
truyền bá và thực hành Phật pháp.
Tuy nhiên, cho dù một vài bản kinh của Phật giáo Đại
thừa cố gắng đưa Phật giáo ra khỏi phạm vi tự viện và nêu cao vai trò người cư
sĩ trong việc ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hàng ngày và thực hiện vai
trò truyền đạo giống như một người xuất gia, thì những gì được phản ánh qua
dòng chảy lịch sử, việc thực hiện vai trò truyền đạo của Phật giáo Đại thừa đều
thuộc về người xuất gia. Ngay như Ưu-bà-tắc giới kinh, một bản kinh dành
cho người cư sĩ, dù nêu cao vai trò người cư sĩ và thậm chí thỉnh thoảng đưa
“công hạnh” của người tại gia qua khỏi người xuất gia, sau cùng cũng lại xem
việc xuất gia là con đường cao quý nhất và cần nên theo. Hẳn nhiên là trong
lịch sử, cũng đã có những vị cư sĩ đã giảng dạy cho giới Tăng lữ, nhưng thường
là không nhiều.
Cũng
như vai trò của các vị vua trong việc ủng hộ phát triển Phật giáo ở các nước
Phật giáo Theravada, điều này cũng lặp lại trong Phật giáo Đại thừa. Tức rằng,
một vị cư sĩ khi họ là một vị vua, thông qua đoàn thể Tăng-già hay một vài vị
Tăng xuất chúng nào đó, có thể phát triển Phật giáo rất thành công. Chúng ta dễ
dàng nhận thấy điều này qua một số vị vua sùng mộ Phật giáo ở Trung Quốc, Nhật,
Hàn và Việt Nam.
Vào thế kỷ XX và XXI, khi Phật giáo truyền bá sang
phương Tây, chúng ta bắt đầu nhìn thấy một hình thái tổ chức Phật giáo mới, đó
là những cộng đồng Phật giáo do các cư sĩ điều hành và lãnh đạo. Họ thực hiện
đầy đủ các vai trò như một người Tăng sĩ: thực hành các nghi lễ, thuyết giảng
và hướng dẫn tu tập. Ở phương Tây, đây là một khuynh hướng tất yếu bởi vì sự
thiếu vắng những người xuất gia bản địa, và những Tăng sĩ đến từ các nước Á
châu không đủ về số lượng hoặc không đủ khả năng để đảm nhận vai trò lãnh đạo
các tổ chức Phật giáo ở những nước Âu-Mỹ. Nhưng khuynh hướng này không chỉ có
mặt ở các nước Âu-Mỹ, mà trong tương lai cũng sẽ xuất hiện ở Á châu. Nhưng có
một điều chúng ta có thể nhận thấy rằng, những tổ chức và những cộng đồng Phật
giáo có tiếng tăm trong thời hiện đại, dù ở Á hay Âu, hầu như đều do các Tăng
sĩ khởi xướng và lãnh đạo. Lịch sử Phật giáo về mối liên hệ giữa Tăng sĩ và cư
sĩ, xem ra cứ lặp đi lặp lại.
Những tổ chức Phật giáo do cư sĩ lãnh đạo ở Tây phương cũng như châu Á trong đó có Việt Nam,
sẽ tồn tại được bao lâu trong một hình thức không cần đến Tăng sĩ, điều đó không thể biết được. Vài chục năm hay cho dù
một trăm năm cũng chưa thể được xem
là dài trong lịch sử tôn giáo. Nhưng trong trường hợp rằng, nếu trong tương lai khi người xuất gia vắng
dần, thì Phật giáo có thể linh động để phát triển theo khuynh hướng này không,
hay rồi lặp lại như hầu hết các trường hợp ở trong quá khứ, rằng mỗi khi hàng
ngũ xuất gia suy thoái hay vắng mặt, thì Phật giáo cũng theo đó mà suy vong?
Chú thích
(1)
Xem thêm, E. Lamotte, bản dịch tiếng Anh của S.
Webb-Boin, History of Indian Buddhism: From the Origins to the Saka era, Louvain-la-Neuve:
University Catholique de Louvain, Institut orientaliste, 1988. tr. 65.
(2)
Xem thêm, Dipak Kumar Barua, An Analytical Study of Four Nikayas, Delhi: Munshiram Manoharlal,
2003, tr. 120.
(3)
Xem Kajiyama Yūichi, “Prajñāpāramitā and the rise of Mahāyāna”, trong Takeuchi
Yoshinori (ed.), Buddhist Spirituality: Indian, Southeast Asian, Tibetan,
Early Chinese, Delhi:
Motilal Banarsidass, 1995, tr.137.
(4)
Liên quan đến sự xuất hiện của Phật giáo Đại thừa, xin xem, Nalinaksha Dutt, Mahāyāna
Buddhism; R. Kimura, A Historical Studies of the Terms of Hināyāna and Mahāyāna
and the Origin of Mahāyāna Buddhism; Paul Williams (ed.), The Origins
and Nature of Mahāyāna Buddhism; Some Mahāyāna Religious Topics; Hirakawa
Akira, A History of Indian Buddhism: From Śākyamuni to Early Mahāyāna, trans.
by Paul Groner; Paul Williams, Mahāyāna Buddhism: The Doctrinal Foundations…
(5)
Sự kiện tranh cãi giữa hai nhóm Tỳ-kheo tại Kosambi xảy vào kỳ an cư thứ chín
sau khi Đức Phật giác ngộ. Nguyên nhân của việc tranh cãi vốn không có gì lớn.
Một Tỳ-kheo trong khi đi vệ sinh đã không đổ hết nước trong chiếc chậu, mà vốn
được quy định cần phải đổ sạch sau khi đi vệ sinh xong. Một Tỳ-kheo khác khi
nhìn thấy việc ấy, đã khiển trách vị Tỳ-kheo này. Nhưng vị Tỳ-kheo này không
chịu nhận lỗi, bảo rằng mình không hề vi phạm luật định. Chư Tăng họp lại khiển
trách vị Tỳ-kheo này và cũng đình chỉ việc tu tập của thầy. Nhưng vị Tỳ-kheo bị
cho là phạm lỗi này lại có người ủng hộ, vì thế dẫn đến việc phân chia hai
nhóm, tranh cãi đúng sai.
Khi sự việc
việc xảy ra, Đức Phật đã cố gắng hòa giải hai nhóm, nhưng nỗ lực của Ngài đã
bất thành. Hai nhóm Tỳ-kheo cũng đề nghị Đức Phật đừng can thiệp vào chuyện của
họ, để họ tự “giải quyết” lấy sự việc. Nhận thấy nỗ lực hòa giải của mình không
có kết quả, Đức Phật đã lặng lẽ bỏ vào rừng, để lại hai nhóm đệ tử say sưa
tranh cãi đúng-sai. Ở trong rừng, Đức Phật độc cư thiền định và làm bạn với một
chú voi và một chú khỉ, và hai sinh vật này đã “phát tâm” dâng trái cây và mật
ong cho Ngài mỗi ngày.
Hai nhóm Tỳ-kheo càng tranh cãi dữ dội, và hậu quả là
Tăng đoàn (ở Kosambi) bị chia rẽ sâu sắc và khiến cho giới Phật tử tại gia chán
ngán, xa lánh, không còn cúng dường vật phẩm. Phương pháp “chế tài” của các
Phật tử tại gia đã có hiệu quả. Không thể nhịn đói để tranh cãi mãi được, hai
nhóm Tỳ-kheo bèn tìm đến Đức Phật, lúc này Ngài đang trú tại Savatthi, để xin
sám hối.