Giếng chùa Thiên Ấn là một di tích độc đáo. Truyền thuyết kể rằng, vào cuối thế kỷ XVII, vị sư tổ khai sơn chùa
đã dốc tâm đào giếng ròng rã hai mươi năm trời, phải kiên trì chiến đấu
với những tảng đá cứng , đào sâu xuống 21m mới chạm được tới mạch nước.
Khi dòng nước thiêng trong mát thần diệu trào lên, thì cũng là lúc sư tổ
sức cùng lực kiệt, ngài tịch diệt và để lại cho đời nguyên vẹn giếng
nước ngọt ngào. Hàng trăm năm nay dân gian còn lưu truyền câu ca dao
ngợi ca công đức của sư tổ.
Ông thầy đào giếng trên non
Đến khi có nước không còn tâm hơi
2.Chùa Lương, tên chữ là Phúc Lâm tự , ngôi chùa
cổ nhất xứ Quần Anh (Nam Định), được khởi dựng từ năm 1509, đồng hành
cùng lịch sử khai cơ vùng đất này. Chưa được biết đến bởi những công
trình kiến trúc cổ: Chùa Lương-Cầu Ngói cùng cảnh quan đẹp đẻ, hồ nước trước chùa rộng hàng mẫu như tấm gương để tam quan, thiên thạch đài trụ soi bóng. Trong khuôn viên chùa, sát cạnh tiền đường , có giếng nước cổ độc đáo cùng tuổi với chùa, thành giếng được tạo bởi hàng chục chiếc cối đá xếp vòng tròn, bốn mùa nước trong leo lẻo, chỉ dùng để đổ xôi, cúng Phật.
3.Một ngôi chùa
khác cũng có tên là Phúc Lâm, tọa lạc trên vùng đất vốn là quê ngoại của
vua Lý Thái Tổ (nay thuộc thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà
Nội), là nơi hội tụ những di tích vật thể và phi vật thể của triều Lý. Chùa được khởi dựng từ năm 1224, giữa rừng hoa,
vườn quan họ của các phủ tôn thất Triều Lý. Trải qua gần 800 năm dâu
bể, trước sức tàn phá của binh đao đạn lửa, lũ lụt, sự thay dòng đổi
hướng của sông nước, nên bóng dáng kiến trúc lộng lẫy uy nghi xưa kia đã
bị thời gian biến cải. Nửa cuối thế kỷ XX, do vỡ đê, nước lụt tràn bờ
nên dân làng phải di chuyển chùa sâu vào phía trong làng. Tuy nhiên , chùa
vẫn còn bảo lưu được nhiều báu vật cổ xưa, một số pho tượng cổ, bia đá,
những tảng đá kê chân cột, đặc biệt là phù điêu lan can hình con sấu và
một giếng đá cổ thời Lý.
Giếng đà trong khuôn viên chùa
Phúc Lâm được làm từ những tảng đá nguyên khối. Phần cổ giếng được tạo
bởi hai khối đá cao 30cm, được khoét rỗng hình tròn ở giữa, với đường
kính 80cm tạo nên miệng giếng. Miệng giếng tròn xoay toàn bích khiến bất
cứ ai tới chiêm ngưỡng cũng phải thán phục bàn tay khéo léo, tài tình
của những người thợ xưa. Vết tích biết bao đời người dùng dây kéo nước
tạo nên những rãnh đá mòn lõm sâu hằn lên miệng giếng, có thể đặt vừa cả
ngón tay. Các nhà khảo cổ học đã xác định tuổi của giếng đã trên 600
năm, và đánh giá đây là giếng đá cổ nhất Việt Nam hiện nay. Bộ sách “ kỷ
lục Việt Nam “do báo điện tử Vietnam.Net; Công ty Cổ phần Sách niên
giám Việt Nam và Nhà Xuất bản Thông Tấn cùng phối hợp thực hiện cũng đã
khẳng định: Giếng đá chùa Phúc Lâm là giếng đá cổ nhất Việt Nam.
4. Chiếc giếng cổ độc đáo nhất thuộc về di tích giếng cổ chùa Phổ Minh ở Nam Định, được các nhà khảo cổ phát hiện và khai quật vào năm 1970, và đây là chiếc giếng cổ có giá trị lịch sử vô
cùng quan trọng đối với việc nghiên cứu nền văn minh của dân tộc ta thời
nhà Trần. Vào năm 1970, khi nhân dân đào mương qua khu vực đất chùa để phục vụ thủy nông, tình cờ phát hiện ra giếng cổ này.
Di tích giếng hình tròn, đường kính ngoài 1,6m, sâu 2,80m (tính từ mặt ruộng). Kết quả khai quật giếng chùa Phổ
Minh cho thấy , người xưa đã tạo tác nên thành giếng này bằng những
chiếc bao nung đồ sứ úp sấp, xếp vòng tròn thành nhiều lớp, mỗi lớp vòng
tròn như vậy được quây bởi 14 chiếc bao nung. Khi khai quật chỉ còn 3
lớp, những lớp trên đã bị lấy lên từ lúc đào đắp mương. Nếu tính độ cao
trung bình của những chiếc bao nung là 22cm, thì thành giếng phải gồm 10
lớp, và số bao nung dự tạo thành giếng là 140 chiếc. Nơi đáy giếng có
những bình sành đựng đầy vôi xếp úp sấp, sát với lớp bao nung dưới cùng, xen kẻ với lớp sỏi trải lát lòng đáy giếng.
Mỗi
chiếc bao nung đồ sứ đều có hình vại, miệng ngoài có gờ tròn nổi, đáy
bằng, thành trụ. Bao được nặn từ đất sét pha cát, đã được nung chín, có
màu đỏ gạch. Chính giữa của đáy bao nung có ổ đặt con kê hình vành khăn
tạo gờ lọt vào trong trôn bát, nhiều chiếc con kê còn dính chặt vào đáy.
Chiếc bao nung lớn nhất có đường kính miệng 30cm, cao 25cm, dày 2,5cm;
chiếc nhỏ nhất có đường kính miệng 27cm, cao 19cm. Những chiếc bình sành
chứa vôi có hình dáng tương tự bao nung đồ sứ, nhưng không phải là công
cụ sản xuất đồ sứ mà chính là thành phẩm đồ sứ, đường kính miệng 23cm,
cao 10cm.
Ngoài bao nung đồ sứ và bình sứ, sỏi được đổ
bao quanh phía ngoài thành giếng một vành dày 25cm. Dưới lớp bao và bình
sành xếp đáy, được trải một lượt sỏi mỏng 5cm. Các nhà khai quật còn
tìm thấy dưới đáy giếng một số mẩu gỗ, một con kê, một bát sứ men rạn
trắng xanh bị vỡ và một cố mảnh bát đĩa sứ tráng men ngà đục.
Vị trí của giếng nằm ở nơi hàng rào của chùa Phổ Minh – ngôi chùa được tạo dựng từ thời Lý và mở rộng quy mô vào thời Trần. Chùa
nằm ngay cạnh hành cung Thiên Trường, đó là nơi tu hành và chiêm bái
Phật pháp của các vua nhà Trần cùng những người trong hoàng tộc. Quy mô chùa lớn gấp nhiều lần ngày nay. Chiếc giếng khơi đặc biệt này nằm trong khuôn viên chùa,
được xây dựng để phục vụ cho những Phật tử thuộc hoàng gia. Xung quanh
di tích giếng chỉ thấy tầng văn hóa thời Trần, không tìm được di vật nào
có niên đại sớm hơn hay muộn hơn.
Những chiếc bao
đất nung chính là công cụ của lò nung gốm sứ để sản xuất ra những sản
phẩm đồ sứ cao cấp, chỉ phục vụ cho tầng lớp quý tộc và quan lại. Các
nhà nghiên cứu cho rằng, trong khuôn viên chùa Phổ Minh xưa kia có khu
lò sản xuất gốm sứ để phục vụ những người trong hoàng tộc nhà Trần. Sau
đó, khi lò gốm không cần sử dụng nữa, người ta đã phá bỏ, và dùng luôn
những vật dụng của lò gốm để xây giếng chùa.
Như vậy, ngay từ thời xa xưa, cha ông ta đã biết xây dựng giếng theo các nguyên lý rất khoa
học. Giếng vừa là nơi cung cấp nguồn nước trong lành cho cuộc sống, đảm
bảo vệ sinh, vừa có tính thẩm mỹ, tạo cảnh quan hài hòa trong tổng thể
kiến trúc chung của ngôi chùa. Và trong thế giới sinh động của giếng chùa ở nước ta, giếng chùa Thiên Ấn, giếng chùa Lương, giếng chùa Phúc Lâm, giếng chùa Phổ Minh…chính là những minh chứng tiêu biểu.
Chu Minh Khôi (Theo Tạp Chí VHPG)