Hà Nội là thủ đô cả
nước, với tên gọi đầu tiên: Thăng Long (rồng bay). Vùng Đông Bắc Việt
Nam có địa danh Hạ Long (rồng hạ). Đồng bằng Nam Bộ phì nhiêu được làm
nên bởi dòng sông mang tên Cửu Long (chín rồng).
Là
biểu tượng của sự cao quý, của sức sống vĩnh hằng và sức mạnh vũ trụ
nên hình tượng rồng được sử dụng nhiều trong kiến trúc cung đình, đình
chùa, trang phục vua chúa. Hình tượng con rồng cũng thay đổi theo dòng
lịch sử qua các triều đại. Việc xác định phong cách thể hiện con rồng
qua các thời kỳ sẽ là một căn cứ để xác định niên đại công trình kiến
trúc nào đó.
Hình tượng rồng thời Lý
Trên
các hiện vật điêu khắc đá và gốm còn truyền cho đến nay, các nhà khoa
học chỉ thấy rồng tạc dưới dạng phù điêu, không thấy chạm chìm và chạm
tròn. Đó là nhưng con rồng thân tròn lẳng, khá dài và không có vẩy, uốn
khúc mềm mại và thon dài từ đầu đến chân, rất nhẹ nhàng và thanh thoát.
Các nhà nghiên cứu gọi đây là rồng hình giun hay hình dây và điều đập
vào mắt mọi người là nó mang hình dạng của một con rắn.
Rồng
thời Lý thường ngẩng đầu lên, miệng thì há to, mép trên của miệng không
có mũi, kéo dài ra thành một cái vòi uốn mềm mại, vươn lên cao, vuốt
nhỏ dần về cuối. Một chiếc răng nanh mọc từ cuối hàm trên, uốn cong và
vắt qua vòi mép ở trên, có trường hợp răng nanh rất dài, uốn lượn mềm
mại để vươn lên, hoặc với vòi lên bao lấy viên ngọc.
Thân
rồng dài, dọc sống lưng có một hàng vảy thấp tỉa riêng ra từng cái, đầu
vây trước tua vào hàng vây sau. Bụng là đốt ngắn như bụng rắn, có bốn
chân, mỗi chân có ba ngón phiá trước, không có ngón chân sau. Vị trí của
chân bao giờ cũng đặt ở một chỗ nhất định. Chân trước mọc gần giữa khúc
uốn thứ nhất, chân đối xứng phía bên kia nằm gần cuối khúc uốn này. Hai
chân sau bao giờ cũng ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba. Cả bốn chân
đều có khủy phía sau và có móng giống chân loài chim.
Hình tượng rồng thời Trần
Từ
nửa cuối thế kỷ XIV, con rồng đã rời khỏi kiến trúc cung đình để có mặt
trong các kiến trúc dân dã, không những chỉ có trên điêu khắc đá và
gốm, mà còn xuất hiện trên điêu khắc gỗ ở chùa. Rồng cũng không chỉ có ở
các vị trí trang nghiêm mà rồng còn có mặt ở các bậc thềm (như ở chùa
Phổ Minh).
Thân
rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong tròn
nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như đuôi
rắn. Vẩy lưng vẫn thể hiện từng chiếc, nhưng không tựa đầu vào nhau như
rồng thời Lý. Có khi vảy lưng có dạng hình răng cưa lớn, nhọn, đôi khi
từng chiếc vẩy được chia thành hai tầng. Chân rồng thường ngắn hơn,
những túm lông ở khủy chân không bay ra theo một chiều nhất định như
rồng thời Lý mà lại bay lên phía trước hay phía sau tùy thuộc vào khoảng
trống trên bức phù điêu. Và có sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi
tay
Đầu rồng không có nhiều phức tạp như rồng
thời Lý. Rồng vẫn có vòi hình lá, vươn lên trên nhưng không uốn nhiều
khúc. Chiếc răng nanh phía trước khá lớn, vắt qua sóng vòi. Miệng rồng
há to nhưng nhiều khi không đớp quả cầu.
Rồng
thời Trần lượn khá thoải mái với động tác dứt khoát, mạnh mẽ. Thân rồng
thường mập chắc, tư thế vươn về phía trước. Cách thể hiện rồng không
chịu những quy định khắc khe như thời Lý.
Hình
ảnh rồng chầu mặt trời sớm nhất là trong lòng tháp Phổ Minh ( Nam Định)
có niên đại khoảng 1305 -1310. Đôi rồng ở đây được bố trí trong một ô
tròn, chạy ngược chiều kim đồng hồ, đầu ngoái lại chầu một vòng tròn nhỏ
ở giữa. Thể hiện mặt trời dưới dạng một vòng tròn đơn giản.
Hình tượng rồng thời Lê
Đến
thời Lê, rồng có sự thay đổi hẳn, rồng không nhất thiết là một con vật
mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu
rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc
mũi to. Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như
thẳng ra, bao quanh có một hàng vải răng cưa kết lại như hình chiếc lá.
Răng nanh cũng được kéo dài lên phía trên và uốn xoăn thừng ở gốc. Lông
mày vẫn giữ hình dáng biểu tượng ômêga, nhưng được kéo dài ra và đuôi
vuốt chếch lên phía sau. Trên lông mày và chiếc sừng hai chạc, đầu sừng
cuộn tròn lại. Rồng có râu ngắn và một chân trước thường đưa lên đỡ râu,
tư thế thướng thấy ở các con rồng đời sau. Cổ rồng thường nhỏ hơn thân,
một hiện tượng ít thấy ở những con rồng trước đó. Như vậy rồng mang
dạng thú xuất hiện cuối đời Trần đã thấy phổ biến ở đời Lê Sơ nhưng vẫn
còn mang dáng dấp truyền thống của loài rắn.
Hình tượng rồng thời Nguyễn
Rồng
thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã được nhân
cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy rồng con quây
quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.
Con
rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng
liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc
ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ... Phần
lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu
rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư
tử, miệng há lộ răng nanh. Vậy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn
đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình
tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.
Ngày
nay, hình tượng rồng tuy không còn mang tính chất thiêng liêng, tối
thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc,
hội họa, chạm, khắc nghệ thuật... Dù ở bất cứ thời điểm nào, rồng vẫn là
một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt.