Sẽ
có người nói rằng, người xuất gia thì chẳng nên bàn đến những chuyện về
kinh doanh, làm giàu. Nhưng khi nghe một doanh nhân nói: “Đồng tiền
không làm cho người ta giàu có hơn, một khi họ đánh mất uy tín và danh
dự…”, thì theo góc nhìn của đạo Phật, người viết có đủ tự tin để lạm bàn
đôi chút về chuyện làm thế nào để một người được gọi là người giàu.
Bàn
chuyện làm sao để kinh doanh có lãi thì doanh nhân là những người có
thừa kinh nghiệm. Nhưng điều chúng tôi quan tâm đến chữ “giàu” chẳng
phải vì những đồng tiền ấy được công bố qua những con số ồn ào trên báo
chí, mà chính là sự vươn lên của tầng lớp doanh nhân, một tầng lớp đang
khẳng định những giá trị thực sự của người giàu đối với sự phát triển
chung của một quốc gia, đặc biệt thông qua cách họ sử dụng đồng tiền.
Siêng
năng làm việc thì tạo ra ích lợi, mà ích lợi gần nhất đối với con người
chính là của cải, vật phẩm. Của cải, vật phẩm càng phong phú, dồi dào
thì đời sống càng thịnh vượng. Một dân tộc cường thịnh phải là một dân
tộc dám ước mơ, dám sống với những lý tưởng làm giàu, và điều quan trọng
là mỗi người đều phải siêng năng làm tròn chức trách, phận sự của mình.
Phật bà Quan Âm Nghìn mắt Nghìn tay sở dĩ được dân gian tôn sùng như
một biểu tượng của lòng từ bi cứu khổ, vì đó là biểu tượng của “Tri -
Hành hợp nhất”. “Mắt” là cái biết. “Tay” là cái làm. Có “biết” thì mới
“làm”, không làm bừa, đó gọi là trí tuệ. Làm không mệt mỏi do cái biết
đã vững vàng, đầy đủ, khi ấy năng lực cứu giúp được tạo ra là vô biên,
ai có yêu cầu gì thì cứu giúp, đó gọi là tùy thuận chúng sinh. Một người
có thể thực hiện nhiều những phương tiện khác nhau để tùy thuận chúng
sinh thì được xem là người hành Bồ tát đạo. Có nghìn mắt thì phải có
nghìn tay tương ứng, bởi biết nhiều mà làm ít thì cũng chẳng đem lại
nhiều lợi ích, biết ít mà làm nhiều thì càng làm càng gây hại mà thôi.
Dân gian gửi gắm triết lý sống của đạo Phật vào hình tượng đó với dụng ý
sâu xa như vậy, chứ đâu phải chỉ tạc ra một hình tượng cho kỳ quái để
gây tò mò về điêu khắc, mỹ thuật.
Người
có khả năng cứu giúp cho nhiều người thì phải làm chủ cái biết, làm chủ
hành động của mình. Người chưa giàu có về tài sản thì làm sao cứu khổ,
ban vui cho người khác? Nhưng tài sản không chỉ mang khuôn mặt của đồng
tiền hay những thứ tương tự như nó, mà cao hơn còn là uy tín và danh dự.
Nếu chỉ biết làm đầy kho tiền bằng mọi cách thôi thì chưa đủ để bước
vào địa vị của người giàu.
Trong
kinh Tăng Chi Bộ (1), Đức Phật có đề cập đến bảy thứ tài sản: Tín tài
(lấy chữ tín, lòng tin tưởng tốt đẹp làm tài sản), Giới tài (lấy giới
luật và những cư xử chuẩn mực làm tài sản), Tàm tài (lấy sự xấu hổ với
những việc làm sai trái làm tài sản), Quý tài (lấy sự sợ hãi với những
hành vi bất thiện của thân khẩu ý làm tài sản), Văn tài (lấy sự nghe
nhiều học rộng làm tài sản), Thí tài (lấy tâm rộng lượng, chia sẻ làm
tài sản), Tuệ tài (lấy trí tuệ làm tài sản). Và Đức Phật khẳng định:
“Ai có những tài này
Nữ nhân hay nam nhân
Được gọi không nghèo khổ
Mạng sống không trống rỗng…”.
Người
ta thường nói “Đa kim ngân phá luật lệ” để ví về sức mạnh tàn phá công
lý của đồng tiền, đó là một thứ đồng tiền có thể bẻ cong mọi luật pháp.
Vậy cái có thể “đối kháng” với đồng tiền để giữ vững kỷ cương quốc gia
chính là bảy thứ tài sản như đã nêu ở trên. Một quốc gia mà mọi công dân
đều trang bị cho đời sống của mình bảy thứ tài sản đó thì làm sao quốc
gia ấy có thể nghèo khó được, người dân làm sao có thể sống một cách
trống rỗng, vô vị được.
Tuy
nhiên, khi khuyến khích mọi người xây dựng đời sống của mình bằng bảy
thứ tài sản đó, Đức Phật cũng không quên giảng về 5 cách sử dụng đồng
tiền mà mỗi người phải chú ý thực hiện: 1. Dùng tiền để nuôi sống bản
thân và gia đình, 2. Giúp đỡ những người có hoàn cảnh nghèo khổ, cơ nhỡ
bất hạnh, 3. Cúng dường Tam Bảo, 4. Tái đầu tư, 5. Dành dụm để dự phòng
rủi ro, bất trắc.
Cách
sử dụng đồng tiền đã trực tiếp khẳng định lợi ích của đồng tiền đối với
cuộc sống, đồng thời cho thấy con người làm chủ được đồng tiền, bảo vệ
được tài sản. Ngoài ra, trong kinh Thiện Sanh, Trường Bộ (2), Đức Phật
nói thêm về 6 nguyên nhân gây phung phí tài sản mà mọi người cần phải
tránh xa là: 1. Đam mê các loại rượu, 2. Du hành đường phố không đúng
lúc, 3. La cà đình đám hí viện, 4. Đam mê cờ bạc, 5. Giao du với bạn ác,
6. Quen thói lười biếng.
Tục
ngữ người Việt mình có câu: “Giàu đâu những kẻ ngủ trưa, sang đâu những
kẻ say sưa tối ngày”. Thực mục sở thị những gì đang diễn ra trên đường
phố và khắp các hàng quán, đối chiếu với thời gian làm việc được nhà
nước quy định, chúng ta dễ dàng nhận ra người Việt mình đang phung phí
rất nhiều tài sản. “Kẻ ngủ trưa” là những kẻ đánh cắp thời gian, ưa đến
làm việc trễ và về nghỉ sớm. “Kẻ ngủ trưa” là những tiêu phí sức lực và
tâm trí của mình vào những chuyện say sưa vô bổ, không nỗ lực cho công
việc mà bày trò du hí để giết thời gian, làm thui chột sự sáng tạo… Đất
nước không thể trở nên giàu có khi những “kẻ ngủ trưa” xuất hiện trong
mọi ngành nghề, mọi tầng lớp xã hội.
Cái
giàu bị đánh cắp bởi sự phung phí thời gian, tuổi tác. Còn cái sang
cũng biến mất cùng với thói quen say sưa, nghiện ngập. Bao nhiêu những
chuyện hỉ nộ ái ố, tầm phào, bao nhiêu những ngôn ngữ loạn chuẩn đều từ
thói say sưa tối ngày mà ra cả. Tiền mà mỗi người dân kiếm được thì ít,
quốc gia vẫn còn đang nghèo, nhưng hãy nhìn cách không ít người quăng
đồng tiền vào những cuộc nhậu, gọi thức ăn như quát, coi người phục vụ
mình như nô lệ, xem nhẹ việc nuôi sống gia đình… thì sẽ thấy đồng tiền
nó tàn phá người dân mình ra sao. Người xưa đâu chỉ muốn giàu không
thôi, họ còn muốn tìm cách nâng mình lên để sang nữa chứ. Giàu mà không
sang, không đàng hoàng thì chỉ cho ra hình ảnh của một anh trọc phú. Anh
trọc phú ấy càng sơn phết cho cái vẻ hoành tráng ở bên ngoài thì càng
lộ ra một bộ mặt kệch cỡm, khó ưa. Đó chính là tướng tự tâm sinh. Một
quốc gia mà đi đâu cũng thấy ô nhiễm, nhếch nhác, giành giật, xâm lấn,
cơi nới, nạt nộ, khinh khi nhau… thì đủ biết cái “Tâm” của người dân
trong quốc gia ấy còn phải cần điều chỉnh nhiều lắm.
Một
người không biết sử dụng tài sản của mình vào việc gì cho hợp lý, không
biết cách nâng phẩm chất sống của mình lên thì dù có sở hữu một khối
tài sản khổng lồ, anh ta cũng không phải là một người giàu đúng nghĩa.
Đáng tiếc, từ lâu cách xã hội công nhận người giàu lại chỉ nhìn vào khối
tài sản kếch xù (nhưng bấp bênh) ấy. Vì sao gọi nó là bấp bênh, vì nếu
một người không tự làm giàu cho mình bằng những giá trị tài sản khác thì
cái làm giàu bất chính, làm giàu phi pháp sẽ kéo họ vào hố chôn chính
mình, tiêu tán sản nghiệp một cách nhanh chóng. Chính việc làm giàu bằng
mọi cách, bất chấp đạo lý đang tạo ra nghiệp trộm cắp, nghiệp tham
nhũng, nghiệp gian ác, những thứ nghiệp chướng này sẽ tàn phá đất nước ở
cả chiều rộng và chiều sâu, và cái chữ “đa kim ngân phá luật lệ” càng
dương dương tự đắc mà hành xử, mà gây oán, chuốc hờn với cộng đồng xã
hội. Tại sao, người mình lâu nay cứ nghĩ rằng “có thực mới vực được
đạo”, mà không thử nghĩ cách để lấy “đạo” mà vực cho cái ăn, cái mặc,
cái ở đàng hoàng hơn?
Một
khi mọi khuynh loát, dấy động, tha hóa đều được đồng tiền bảo kê thì
càng nhiều người giàu như vậy, người dân càng đối mặt với mối nguy mất
an toàn về thân thể và tài sản. Khi tham nhũng trở thành quốc nạn, cũng
là lúc cho ra kết luận chính xác về một xu hướng làm giàu một cách bất
lương và thiếu sạch sẽ. Người giàu thì phải biết cách sử dụng đồng tiền
sao cho vừa ích mình vừa lợi người. Người sang thì không thể ăn bẩn, ăn
một cách lén lút, ăn trong bóng tối. Chừng nào người trong thiên hạ còn
làm giàu cho họ nhiều hơn họ làm giàu cho người khác thì họ vẫn chưa thể
trở thành một người giàu đúng nghĩa. Điều đáng nói, thói vung vít đồng
tiền của hàng trọc phú mới nổi vẫn chưa có lý thuyết nào đủ mạnh để định
hướng, nên cứ lồ lộ ra những ứng xử bất ổn giữa ban ngày, đến mức nhiều
người phải thốt lên rằng ô hay, hình như cái dây thần kinh xấu hổ của
anh ta đã bị đứt từ bao giờ mà vẫn chưa có cuộc tiểu phẫu, đại phẫu nào.
Xin
nhắc lại, trong bảy thứ tài sản, Đức Phật xem “hổ thẹn” cũng là một thứ
tài sản. Một người nếu cứ làm đầy kho tiền của mình bất chấp việc tàn
phá môi trường, gây ra những đau khổ cho người khác mà không hề khởi lên
một sự hổ thẹn nào thì dù có vẻ hào nhoáng bên ngoài như thế nào, anh
ta cũng không thể trở thành người giàu. Một người gây hại trầm trọng cho
quốc gia, làm thất thoát tài sản của dân mà không biết hổ thẹn nhận
trách nhiệm, thì tự mình đánh mất niềm tin và sự kỳ vọng của dân chúng.
Chính sự hổ thẹn sẽ đem đến những điều chỉnh tích cực để anh ta xây dựng
lại hình ảnh của chính mình, và mọi điều vẫn chưa trở nên quá muộn.
Chẳng phải ngẫu nhiên, trong bảy thứ tài sản đó, Đức Phật lại đặt “Tín
tài” lên hàng đầu. Hiện nay không ít doanh nhân đã nhận thức được chữ
tín là nguyên nhân hàng đầu để xây dựng thương hiệu. Một thương hiệu mà
chữ tín được củng cố thì lợi nhuận sẽ gia tăng tương ứng. Nếu một quốc
gia mà mọi người đều biết khởi sự làm giàu bằng chữ tín, thì tin chắc
rằng sự sáng tạo sẽ thăng hoa và ít ai phải tham nhũng, đưa hối lộ để
làm giàu bất chính.
Chữ
tín sẽ đem đến sự công bằng. Một khi niềm tin giữa doanh nghiệp và nhà
nước, giữa nhà nước và doanh nghiệp có với nhau thì kho công, kho tư đều
cùng đầy lên, đồng nghĩa với việc nhà nước có nhiều điều kiện hơn để
hoàn thiện các chính sách giúp các doanh nghiệp phát triển. Việc tăng
GDP làm sao để chất lượng sống của người dân được nâng cao nằm ở chính
sự lương thiện của cả hai phía và ý chí làm giàu chân chính của cả cộng
đồng. Các công ty đừng khai khống thuế thì sẽ làm đầy cho ngân quỹ của
quốc gia. Nhưng thử hỏi làm đầy cho ngân quỹ như thế nào khi tham nhũng
trở thành quốc nạn, khi những người giữ vai trò lãnh đạo không có đủ sự
trong sạch tối thiểu để tạo niềm tin về một khối tải sản được chi dùng
hợp lý hơn cho các công việc quan trọng của quốc gia và lợi ích cộng
đồng?.
Nếu
sự vận hành của nhà nước và doanh nghiệp đúng chuẩn mực thì lợi ích cho
cả hai phía sẽ không ngừng tăng lên, khi ấy lương công nhân và các phúc
lợi xã hội cũng sẽ tăng theo cùng với niềm tin xã hội. Nếu có ai hỏi
Việt Nam có bao nhiêu người giàu, lập tức sẽ có vô số thống kê nhanh
nhảu chỉ đích danh ông nọ bà kia, nhưng tin chắc khó ai có thể trả lời
chính xác về khối tài sản ấy có được là nhờ vào việc làm ăn chính đáng,
minh bạch hay không.
Những
con cá săn mồi đều phải đuổi theo những con mồi để đớp nhanh, và trong
hàng đàn những con săn mồi sẽ có con no bụng trước vì đớp trúng mồi nhờ
kỹ thuật, kinh nghiệm và đôi khi nhờ cả vào sự may mắn nữa. Tất cả mọi
kỹ năng săn mồi được đưa ra để làm giàu thêm cho kinh nghiệm kiếm mồi.
Nhưng sự đầy bụng của những con cá lớn luôn đi cùng sự giảm sút số lượng
của những con cá bé. Dù đó là quy luật sinh tồn trong tự nhiên, nhưng
thông thường những con cá lớn thì vẫn ít nguy hiểm, rủi ro hơn. Đây cũng
là lý do mà người ta thường ví, người giàu thì giàu thêm, người nghèo
thì ngày càng bần cùng, khố rách.
Trong
tự nhiên là như vậy, còn ở xã hội loài người thì mọi phát triển đều cần
dựa trên sự công bằng, chính sự công bằng tách quy luật của con người
ra khỏi quy luật hoang dã (cá lớn nuốt cá bé). Bởi cái làm nên phần
người là cái thúc giục con người phải văn minh, phải sang, phải biết
vượt ra khỏi sự hoang dã để sống với phần người nhiều hơn nữa.
Người
biết đem tải sản chia sẻ cho lợi ích chính đáng của cộng đồng, cũng nên
là người hiểu đồng tiền, quý giá trị của đồng tiền, đôi khi cũng phải
biết xem nó gắn liền với khúc ruột của mình, tức phải hiểu những khó
khăn, vất vả, cơ cực của việc kiếm tiền. Có như vậy mới có thể sử dụng
đồng tiền sao cho có ích nhất trong việc nâng cao các giá trị và phẩm
tính của cộng đồng. Và chỉ khi có trí tuệ sáng suốt, nhìn ra tương quan
nhân quả thì mới có thể cắt khúc ruột của mình cho người khác mà không
đau tiếc, không do dự. Biết tặng khúc ruột ấy vào một cơ thể có thể ý
chí sống vươn lên, biết tận dụng khúc ruột được trao tặng ấy để sống
tiếp một cuộc đời đáng sống thì chính khi ấy, doanh nhân kia đã giàu lên
nhờ đạt được “thí tài”. Nếu cắt khúc ruột cho một kẻ đã băng hoại và
mất hết ý chí sống, thì lòng từ bi dù có cao cả đến bao nhiêu cũng chỉ
là việc làm phung phí tài sản. Còn những người chỉ biết đóng vai từ
thiện để mua về những thứ danh hảo, lợi dụng vào việc thiện để tiêu thụ
hàng rởm, làm lợi cho bản thân mình thì xét ở góc độ sở hữu bảy thứ tài
sản như đã nêu ở trên, họ còn cách rất xa tầm vươn tới địa vị của một
người giàu.
Có
những người ban đầu cũng nỗ lực sử dụng đồng tiền một cách minh bạch,
nhưng không đủ sức kiên nhẫn khi nhìn thấy người khác giàu lên nhanh hơn
mình, thế là họ nghĩ rằng làm ăn chính đáng thì thiệt thòi, cần phải
gian lận, luồn lách thì mới mau giàu. Ngay khi suy nghĩ thiếu lương
thiện ấy xuất hiện, họ rớt ra khỏi địa vị của người giàu, và đồng tiền
đã chính thức sai xử họ, làm chủ nhân của họ. Một người làm giàu không
lương thiện, không thể làm chủ được đồng tiền bằng chính tài năng và sức
lực của mình, mới là người bất an nhất trên cuộc đời này. Thử hỏi một
người luôn bất an thì làm sao có thể đem an vui thực sự đến cho người
khác? Một người chưa có đủ những định mức và tiêu chí cần thiết để trở
thành người giàu khi còn khuyết rất nhiều thứ tài sản tối cần thiết
khác, nhưng xã hội cứ thản nhiên tung hê anh ta là “người giàu”, chẳng
phải điều đó đang làm méo mó hình ảnh của một lớp người đang ngày càng
giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội hay sao?.
Đồng
tiền, cách sử dụng đồng tiền và bảy thứ tài sản để một người có thể
sống không nghèo khổ, không trống rỗng được Đức Phật nói đến từ hơn
2.500 năm trước luôn là những điều kiện cần thiết để tạo dựng hình ảnh
của một người giàu đúng nghĩa. Có thể không ít doanh nhân sẽ cảm thấy
buồn vì một số điều mà chúng tôi vừa nêu, nhưng chúng tôi vẫn giữ quan
điểm rằng, chừng nào người tiêu dùng còn làm giàu cho doanh nghiệp nhiều
hơn những gì mà doanh nghiệp đang làm cho cộng đồng, thì danh xưng
“người giàu” vẫn rất cần phải được suy nghĩ thêm cho chín chắn. Doanh
nhân chân chính thì không thể là những người “làm giả ăn thật”. Họ buộc
phải “làm thật ăn thật” bằng ý thức trách nhiệm không chỉ của một giai
tầng mới mà còn của một giai tầng biết dẫn đầu cho mọi khát vọng sống.
Cái mới nào cũng rất cần niềm tin nơi mỗi chúng ta! Và để có được niềm
tin ấy, điều đầu tiên mà mỗi doanh nhân phải làm, không gì khác hơn là
hoàn thiện “Tín tài”./.
Chú thích:
[1] Phẩm Tài sản, Kinh Tăng Chị bộ, Hoà thượng Thích Minh Châu dịch, phiên bản điện tử do Cư sĩ Bình Anson cung cấp.
[2] Kinh Thiện Sanh (Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt), Hoà thượng Thích Minh Châu dịch.
Thích Thanh Thắng
Uỷ viên Ban Văn hoá Trung ương GHPGVN