Trước hết, chúng ta đã ý thức
được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn
đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng
ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và
sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách
tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ các vấn đề
chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật
tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới cho
thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.
Tầm cỡ của những vấn đề này
vượt qua biên giới các quốc gia các dân tộc, vượt ngoài
tầm tay của các người chuyên môn, của các người có
quyền lực. Một vấn đề như chiến tranh và hòa bình, quan
hệ đến sự sống còn của nhân loại không thể giao phó
cho một số nhà quân sự và nhà chính trị. Đó là lý do
giải thích tại sao các phong trào hòa bình thế giới đã và
đang lôi cuốn vào hàng ngũ của mình một số rất đông các
tầng lớp dân chúng. Gần hết các nước trên thế giới,
tất cả các lục địa, dân tộc tuổi tác, nghề nghiệp,
xu hướng chính trị và các hệ phái tôn giáo đã và đang
tham gia vào các phong trào ấy. Chỉ có một lực lượng
bảo vệ hòa bình, hùng hậu và năng động như thế, mới có
sức mạnh để chặn đứng sự nguy hiểm của một cuộc
chiến tranh hạt nhân, chiến đấu chống lại những thế
lực hiếu chiến nguy hiểm, và bảo đảm sự chiến thắng
của hòa bình và tiến bộ. Chỉ có một cái nhìn toàn cầu
đối với vấn đề chiến tranh và hòa bình mới có thể đem
lại cho các phong trào hòa bình thế giới một thắng lợi
lịch sử như vậy.
Hiểm họa của một chiến tranh
toàn cầu đã huy động được nhân dân thế giới chống
lại sự hiện hữu của chiến tranh. Những năm cuối của
thế kỷ XX đã và đang chứng kiến những bước đi lịch
sử, tiến tới một kỷ nguyên không có vũ khí hạt nhân và
không có vũ khí hóa học. Nhưng chúng ta không được buông
lơi cảnh giác. Dầu cho hiểm họa của một chiến tranh
hạt nhân được chận đứng lại, nhưng các chiến tranh
cục bộ với tất cả sự biểu hiện tàn khốc và phi nhân
vẫn còn tồn tại. Bạo lực chánh trị và quân sự vẫn
diễn ra giữa một số quốc gia, giữa nhân dân sắc tộc khác
nhau, cho đến giữa những dân tộc cùng tôn thờ lý tưởng
giống nhau, cùng một ý thức hệ chính trị như nhau. Trong
những năm gần đây, sự quan hệ giữa các quốc gia đã có
một sự thay đổi lớn theo chiều hướng tốt đẹp. Chung
sống hòa bình thông cảm lẫn nhau, đối thoại hơn là đối
đầu, thị trường thay vì chiến trường. Còn trong tình hình
chính trị, nội bộ của nhiều nước cũng có xu hướng
tốt đẹp mở rộng dân chủ, tránh áp đặt và áp lực
trong lãnh vực văn hóa và tư tưởng, coi trọng và thông
cảm đối với những tư tưởng dị biệt.
Chúng tôi tha thiết hy vọng rằng
tiến trình dân chủ hóa và nhân bản hóa chính trị trong
mối quan hệ giữa các nước, cũng như trong tình hình nội
bộ mỗi nước, sẽ được tăng cường và đi sâu hơn nữa
từ nay cho đến năm 2000. Như vậy, chúng ta chuẩn bị cho
một kỷ nguyên thật sự hòa bình, hòa bình cho toàn thể hành
tinh, không phải chỉ cho một số khu vực, hòa bình cho toàn
thể loài người, không phải chỉ cho dân chúng sống trong
một vài địa danh. Mọi hình thức chiến tranh, không phải
chỉ chiến tranh hạt nhân, cần phải loại bỏ. Tất cả
mọi biểu hiện bạo lực cần phải bị diệt trừ một cách
vĩnh viễn.
Chúng ta thấy, và đây là một bài
học thứ hai của chúng ta, mọi vấn đề bức xúc và nguy
kịch có tánh cách toàn cầu cần phải giải quyết với cái
nhìn toàn cầu và với lực lượng toàn cầu, và cần phải
giải quyết một cách sâu sắc, triệt để từ bên trong
nội tâm của mọi người, và chính ở đây, đạo Phật
với môn tâm lý học nội quán và nội tâm đặc sắc của
mình, có thể có phần đóng góp.
Trước tiên, đạo Phật hoan nghênh
mọi phong trào hòa bình và động viên mọi Phật tử tích
cực tham gia vào các phong trào đó. Vì bảo vệ hòa bình
tức là bảo vệ sự sống, là thực hiện giới sát sanh,
giới cấm hàng đầu của đạo đức Phật giáo. Đạo
Phật nhất định chống lại mọi chiến tranh xâm lược, vì
chiến tranh xâm lược bao giờ cũng kèm theo tước đoạt đất
đai và tài sản, xâm phạm vào công việc nội bộ của nước
khác và dân tộc khác. Đây là phạm vào hai giới cấm quan
trọng của đạo đức Phật giáo: Cấm lấy của không
cho và cấm những hành động bất thiện. Đạo
Phật phủ nhận mọi hành động và mọi biểu hiện bạo
lực, dưới bất cứ lý do nào, trừ trường hợp tự vệ
chính đáng.
Tất cả Phật tử chúng tôi đều
ghi nhớ lời dạy như sau của Đức Phật trong Kinh Pháp cú,
số 5:
"Với hận diệt hận thù,
Đời này không có được.
Không hận, diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu."
Đạo Phật đề cao nỗ lực toàn
thể cá nhân, hướng tới tạo ra giữa các dân tộc giữa các
quốc gia cũng như giữa con người với nhau một bầu không
khí thông cảm lẫn nhau, tin tưởng và kính trọng lẫn nhau,
loại bỏ mọi thành kiến, như tự ty mặc cảm, tự cao tự
đại, rất hại đến nhân phẩm và giá trị con người.
Chúng tôi, những người Phật
tử xem là hết sức khẩn thiết xây dựng một nền kinh
tế mới, một nền trật tự đạo đức mới có khả năng
làm lắng dịu mọi sân hận và mọi biến động, làm lành
mạnh hóa không khí chính trị quốc tế hiện tại, chuẩn
bị cho một kỷ nguyên mới nhân đạo hơn và có ý nghĩa hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng tình trạng
kinh tế phân cực hiện nay, một bên là một ít nước công
nghiệp hóa, khéo phát triển và giàu có, và một bên là đa
số các nước nghèo đói và chậm tiến, là một tình
trạng xây dựng trên sự buôn bán không công bằng, mua nguyên
liệu giá rẻ mạt và bán hàng công nghiệp với giá cắt
cổ. Sự buôn bán không công bằng này không thể kéo dài hơn
nữa, vì nó nuôi dưỡng nguy cơ chiến tranh và bạo loạn.
Chúng tôi nghĩ rằng muốn loại
trừ tình trạng kinh tế phân cực hiện tại và xây dựng
một nền trật tự kinh tế mới với nhiều công bằng và bình
đẳng hơn, chúng ta cần phải xây dựng một nền trật tự
đạo đức mới, dựa trên những nếp tư duy đổi mới, và
dựa trên một số nguyên lý nhân bản được toàn thể loài
người có thể chấp nhận.
Nếu không có một nền trật tự
đạo đức thế giới mới làm nền tảng đạo đức, thời
rất khó mà xây dựng thành công một nền trật tự kinh
tế thế giới mới. Và dầu cho có xây dựng thành công cũng
không có thể vững bền. Tình trạng phân cực rồi sẽ được
tái diễn như cũ, và có thể trầm trọng hơn.
Vì vậy theo ý chúng tôi, ưu tiên
một số dành cho sự xây dựng một nền trật tự đạo đức
mới, dựa vào một số nguyên lý căn bản nhân đạo, được
cộng đồng thế giới chấp nhận. Và đối với vấn đề
hiện đại này, đạo Phật với truyền thống là một đạo
hòa bình, có thể có những đóng góp có giá trị.
Chúng tôi nghĩ rằng một trong
những đóng góp lớn nhất của đạo Phật vào nền trật
tự đạo đức thế giới mới này là thuyết "Vô Ngã".
Lý thuyết này, trên bình diện đạo đức, đóng một vai trò
tích cực trong sự nghiệp xây dựng một nếp sống đạo đức
cho con người hiện đại của chúng ta. Đặc điểm tâm lý
bệnh hoạn của con người hiện đại là tìm kiếm các
dục lạc và tích tập tài sản. Để đảm bảo cá nhân hưởng
thụ, con người hiện đại cố gắng chiếm hữu cho mình
mọi của cải vật chất có thể có được. Trong xã hội,
của cải vật chất có sự hạn chế, còn lòng tham con người
thời không đáy. Đây là lý do vì sao không thể tránh khỏi
xung đột và tranh đấu giữa người với người, giữa
quốc gia với quốc gia, giữa dân tộc với dân tộc. Nguồn
gốc của chiến tranh chính nằm ở nơi đây. Với thuyết vô
ngã, chúng ta có thể nói, đạo Phật đã đào bới lên
cội rễ tất cả hiện tượng chiến tranh, các cuộc xung đột
và đối đầu. Với một cái nhìn sâu vào thuyết "vô
ngã", một Phật tử có thể sống hòa hợp và thân
hữu với tất cả mọi người. Một Phật tử một khi đã
giác ngộ sẽ thoát khỏi sự kềm kẹp của tham
(Lobha) và sân (Dosa). Con người tham đắm một vật gì
cho mình, nhưng khi tự mình không có mặt, thời lòng tham
sẽ không còn đối tượng và không có sự kích thích để
tồn tại. Đối với sân cũng vậy. Khi cái ta bị chống đối
không có thỏa mãn, thời lòng sân sẽ nổi lên. Nhưng khi không
còn cái Ngã thời lòng sân biến mất một cách tự nhiên.
Một danh từ khác "Lòng
vị tha" có ý nghĩa tương tự, nhấn mạnh đến sự
giúp đỡ tích cực cho các người khác. Một Phật tử đã
thấm nhuần với nguyên tắc "Vô ngã" sẽ hưởng
mọi ý nghĩ, lời nói và hành động của mình đem lại
hạnh phúc và an lạc cho loài người và các loài hữu tình
như là cứu cánh và mục đích của mình. Trong khi đức
Phật còn tại thế và cả sau khi Ngài nhập diệt tại Ấn
Độ, chỗ đản sanh đức Phật, và trong bất cứ nước nào
có đạo Phật hiện diện, lý tưởng "Vô Ngã, Vị
Tha" luôn luôn là chuẩn mức của nếp sống đạo đức
Phật Giáo, dù là đối với người xuất gia hay tại gia. Như
chúng ta đã được biết, lý tưởng Bồ Tát của Đại
Thừa Phật Giáo chỉ là sự nối tiếp của lý tưởng Vô
Ngã Vị Tha đã được tìm thấy trong đạo Phật Nguyên
Thủy. Trong Kinh tạng Pàli của đạo Phật Nguyên Thủy, đức
Phật đã khích lệ các đệ tử của mình như sau:
"Này các Tỷ kheo, các người
cần phải du hành, vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc
cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc
của Chư Thiên và Loài người. Các người hãy thuyết
giảng Chánh pháp tuyệt diệu trong ban đầu, tuyệt diệu
ở chặng giữa, tuyệt diệu ở đoạn cuối, đầy đủ
trong ý nghĩa và ngôn thuyết. Các người hãy đề cao đời
sống Phạm Hạnh toàn diện và thanh tịnh". (Mahavagga
19)
Ngoài ra lý thuyết "Vô Ngã"
của đạo Phật còn có ý nghĩa bản thể luận và giải
thoát luận rất sâu sắc. Mọi sự vật trong thế giới
này là vô thường, là vô ngã, là không có thực thể,
thời cứu cánh thực sự, dù là sắc đẹp lộng lẫy, dù là
danh vọng cao xa, dù là tiền rừng bạc biển v.v... tất cả
đều là vô thường, vô ngã, không có thực thể nội tại.
Không có gì cần phải tham đắm, không có gì để vơ lấy
của mình. Con người phải thấu triệt lý vô ngã là con người
giải thoát, tuy sống giữa đời mà không bị đời trói
buộc, với thái độ luôn luôn bình tĩnh, thanh thoát, an nhiên
và tự tại.
Đức Phật được tôn thờ như
một sứ giả hòa bình tuyệt diệu. Khi Du sĩ Dìghajànu hỏi
Thế Tôn dạy những gì, đức Phật đã giải thích rất rõ
ràng: "Theo lời dạy của Ta, giữa thế giới của Chư
Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, trong quần chúng Sa Môn và Bà
La Môn, Chư Thiên và loài người, không có sự tranh luận
với một ai ở đời" (M.i 109a). Ngài lại tuyên bố
thêm: "Này các Tỳ kheo, Ta không có tranh luận với
đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ kheo,
một vị thuyết Chánh pháp không có tranh luận với một ai
ở đời" (Tương Ưng III, 165). Đức Phật tuyên bố
rất rõ ràng, mục đích thuyết pháp của Ngài là không có
tranh luận với các bậc lãnh đạo các tôn giáo khác và không
có tranh luận, tranh thắng trong những lời dạy của Ngài.
Ngài chỉ rõ con đường thoát khỏi đau khổ, con đường
đưa đến giác ngộ, giải thoát. Với những ai bị lòng sân
chi phối, hệ thuộc, Ngài dạy Mettà hay lòng Từ để
chinh phục lòng sân. Với những ai thiên về làm hại người
khác, Ngài dạy Karunà hay lòng Bi để trở thành
những người không làm hại ai. Đối với những ai không có
lòng hoan hỷ trước thành công của những người khác, Ngài
dạy Mudità hay lòng Hoan Hỷ để chúng biết như thế
nào là san sẻ hạnh phúc đối với các người khác. Đối
với những ai ai ưa thích trả thù trả oán, Ngài dạy Upekkha
hay Xả để vô hiệu hóa sự hận thù của chúng. Như vậy,
Ngài có những liều thuốc để chữa trị nhiều chứng
bệnh tâm thần và những bệnh lý của thế giới.
Ở Việt Nam trong quá khứ, dưới
hai triều đại nhà Lý và nhà Trần, có những ông vua kiêm
Thiền sư như vua Trần Thái Tông, từng tuyên bố ông xem
Ngai Vua như chiếc giày rách. Cháu Vua Trần Thái Tông là
Trần Nhân Tông, sau khi lãnh đạo thành công trong cuộc kháng
chiến thắng lợi chống quân xâm lược Nguyên Mông đã đắp
áo cà sa, và trở thành vị sáng lập phái Thiền Tông Việt
Nam đầu tiên gọi là Trúc Lâm Yên Tử. Vua Trần Nhân Tông
có làm bài phú bằng tiếng Nôm nổi tiếng, kết thúc bằng
bốn câu thơ chữ Hán, nói lên phong thái an nhiên tự tại
của Vua, khi đối mặt với những thăng trầm của cuộc đời:
"Ở đời vui đạo mặc tùy
duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Báu sẵn trong mình, thôi tìm kiếm,
Lặng lòng đối cảnh, hỏi chi Thiền."
Hai câu cuối của bài thơ ngắn này
xác chứng phong thái an nhiên tự tại của nhà Vua: "Khi
đối mặt với thử thách, chúng ta giữ tâm chúng ta an nhiên
tự tại". Ở đây có nghĩa là đối với tánh vô thường
của thế giới khách quan, tâm nhà Vua luôn luôn an nhiên tự
tại, không một chút gợn sóng. Câu này cũng nói lên một tư
tưởng rất cơ bản của đạo Phật. Mỗi con người đều
tự có trong mình nền móng giác ngộ được gọi là Phật tánh.
Con người đã sẵn có trí tuệ giác ngộ chói sáng và
bừng sáng. Như vậy con người không cần hướng ra ngoài để
tìm hạnh phúc và giác ngộ.
Các thiếu sót cơ bản của con người
hiện đại của chúng ta là chiều hướng đánh mất con người
thật của mình, và chạy theo cái Ta giả với những khao khát,
thèm muốn cuồng loạn, không bao giờ có thể thỏa mãn.
Với một nếp sống văn minh vật chất rất cao, con người
hiện đại sống một đời sống vật chất rất phong phú.
Nhưng đời sống tinh thần và nguyện vọng tâm lý của con
người không được thỏa mãn và bị dao động. Con người
hiện đại luôn luôn có cảm giác bất an dao động và mất
thăng bằng. Với một tâm lý như vậy rất dễ hướng dẫn
nhiều người đi đến ma túy các bệnh viện tâm thần và có
khi đi đến tự sát.
Dĩ nhiên đạo Phật không tán thán
một đời sống túng thiếu nghèo đói và khổ hạnh. Đạo
Phật cũng không đề cao một đời sống chạy theo dục
vọng vật chất, thật sự đê tiện, hạ liệt và đầy thú
tánh, làm con người trở thành ươn hèn về thể xác, hôn
ám, ngu đần về trí tuệ. Trái lại, đạo Phật luôn luôn
đề cao an lạc và hạnh phúc tinh thần, một đời sống có
đạo đức cao đẹp hướng thượng, một sự rạng rỡ
hạnh phúc giác ngộ và giải thóat. Đạo Phật khuyến khích
mọi người trở về với con người thật của chính mình,
với bản tánh chân thật của chính mình, trở về với đời
sống hòa hài với xã hội, hòa hài tự mình với thiên nhiên,
giữa thân với tâm, giữa từ bi với trí tuệ, giữa cảm
giác với lý trí. Đạo Phật xác nhận mọi người đều có
thể thành tựu một đời sống nội tâm hòa hài như vậy,
nếu con người ước muốn và hành động theo lời Phật
dạy, phù hợp với một nếp sống Phật giáo đầy đủ
giới hạnh và trí tuệ. Một đời sống tránh xa hai sự
cực đoan, một bên là hưởng thọ các dục hèn mọn hạ
liệt, một bên là hành hạ xác thân, hành trì khổ hạnh,
một nếp sống chói sáng trong suốt, hướng thượng, giới
hạnh cao đẹp, một nếp sống mà mọi người, từ phương
đông, phương tây, nam và nữ, trẻ và già, xuất gia hay
tại gia đều có thể sống và hướng đến. Chính là nếp
sống thánh đạo tám ngành có danh tiếng, một nếp
sống bao gồm cả giới, định và tuệ.
Một đời sống đạo đức như
vậy sẽ đem lại thiền định nội tâm, và một thiền định
nội tâm như vậy sẽ bảo đảm sự sáng suốt của trí
tuệ, và một người có trí tuệ có thể nhìn sự vật như
Thật. Chính nhờ thái độ như vậy, con người có khả năng
làm chủ bản thân, làm chủ sự vật khách quan, chớ không
phải nô lệ cho chúng. Thật đáng tiếc, thông điệp Giới-Định-Tuệ
của đức Phật đã trở thành nạn nhân của chính con người,
đã bị phủ lên trên bao nhiêu lớp màn huyền bí, mê tín,
dị đoan, kinh viện, khiến cho tinh thần và lời văn của
bản thông điệp trong sáng và giản dị đó đã bị xuyên
tạc, bóp mép, trở thành đổi khác, xa lạ với chính ngay
con người.
Nay đã đến lúc các nhà học
giả, các Phật tử hãy trả lại cho những nguyên lý căn
bản của đạo Phật tánh trong sáng và giản dị nguyên
thủy. Chính nhờ tánh trong sáng và giản dị này, các nguyên
lý căn bản của đạo Phật mới có thể đi sâu vào lòng
người, mới được đông đảo nhân dân thế giới tiếp
thu trở thành lẽ sống căn bản của mình, biến thành
những hành động về thân, về lời, về ý của mình. Chúng
trở thành một sức mạnh vật chất vô địch, biến đổi
thế giới chiến tranh và bất ổn này thành một thế giới
hòa bình và hạnh phúc, và như vậy biến đổi kỷ nguyên
thứ XXI này thành một kỷ nguyên của con người, một kỷ
nguyên trong ấy các giá trị nhân bản là thước đo, là tiêu
chuẩn của mọi giá trị. Hạnh phúc hay không hạnh phúc
của con người sẽ trở thành sợi chỉ đỏ, con đường
ranh giới, phân biệt rõ ràng thật hay giả, thành công hay
thất bại, chánh kiến và tà kiến, một kỷ nguyên trong
ấy con người trở thành vị quan tòa sáng suốt tối thượng,
đánh giá mọi hệ thống chính trị và xã hội xem hệ
thống nào là ưu việt, đầy những sức sống, hệ thống nào
đã lỗi thời và phải rút lui khỏi vũ đài lịch sử.
Phương châm hướng nội, quay về
với chính mình, với con người thật của mình, không được
hiểu lầm là đạo Phật kêu gọi một nếp sống tiêu cực
chán đời và phi xã hội. Trái lại, đó là phương châm
thiết thực nhất, sống động nhất và tích cực nhất để
cải tạo xã hội và thế giới. Đạo Phật cũng đã nói đến
xây dựng Niết bàn ngay trên thế giới này. Toàn thể vấn
đề xoay quanh câu hỏi: "Phải bắt đầu từ đâu?"
Bắt đầu từ xã hội để cải tạo xã hội chăng? Bắt đầu
từ thế giới để cai tạo thế giới chăng?
Đạo Phật quan niệm rằng bắt
đầu như vậy là không thiết thực, như vậy là đặt cái
xe trước con vật. Đạo Phật chủ trương rằng con người
phải bắt đầu với chính mình, làm cho con người hoàn toàn
ý thức được chính mình, con người phải hiểu chính mình
thay cho đổi chính mình, tự hoàn thiện mình, tự cải tạo
mình cho được tốt đẹp hơn, trong một sự chiến đấu không
mệt mỏi, trong từng giờ trong từng ngày, trong toàn bộ
cuộc sống của mình. Chỉ có như vậy xã hội và thế
giới mới trở thành lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn và
hiền thiện hơn. Nếu không có con người lành mạnh, làm
sao chúng ta chờ đợi một sự quan hệ xã hội lành mạnh,
thật sự đạo đức, hiền thiện và cao đẹp? Nếu những
tư tưởng hòa bình, hạnh phúc, hòa hợp không có thấm
nhuần sâu đậm vào trong nội tâm của mỗi con người,
thời làm sao có thể chờ đợi một thế giới hòa bình,
hạnh phúc và hòa hợp được?
Kính thưa quí vị,
Cho phép chúng tôi trích dẫn một
vài lời dạy của Đức Phật, những lời rất đơn giản
nhưng tràn đầy trí tuệ và từ bi:
"Chiến thắng sinh thù oán,
Thất bại chịu khổ đau.
Sống tịch tịnh an lạc.
Bỏ sau mọi thắng bại."
(Pháp cú 201)
Người Phật tử thấu triệt lý
vô ngã, không đặt mình đối lập với một người nào khác,
không tranh giành hơn thua với những người khác. Chính ở
đây giải thích thái độ thăng bằng, thanh thoát, đứng lên
trên tất cả, bỏ ra đằng sau mọi thắng bại. Người
Phật tử xem quan trọng bậc nhất là sự chiến thắng đối
với tham sân si đang tiềm ẩn trong chính mình. Người Phật
tử xem chúng là những kẻ thù từ bên trong. Không những chúng
làm bản thân chúng ta đau khổ, chúng còn là nguồn gốc
sầu muộn và đau khổ cho người khác.
"Tự thắng tốt đẹp hơn
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự".
"Dầu tại bãi chiến trường,
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng".
(Pháp cú 104-103)
Để kết thúc bài thuyết trình
chúng tôi muốn giới thiệu một nền trật tự đạo đức
mới, được xây dựng từ những lời dạy Đức Phật, và
được áp dụng trong thời điểm hiện tại, nếp sống đạo
đức này sẽ làm giảm thiểu những nguy cơ một chiến
tranh hạt nhân và mở đầu một kỷ nguyên trong đó hòa bình,
an toàn và hòa hợp sẽ trở thành những đặc điểm thường
hằng nổi bật nhất, và các giá trị con người được tán
dương và tôn trọng:
- Hiến dâng đời sống của chúng
ta cho hạnh phúc và an lạc của mọi loài hữu tình,
phục vụ cho hòa bình, giải trừ quân bị và tình huynh
đệ quốc tế.
- Sống một đời sống bình
dị, lành mạnh và biết đủ, để hiến nhiều thì
giờ, nhiều năng lực cho hòa bình và hạnh phúc của
mọi loài hữu tình.
- Từ bỏ mọi hành động đưa
đến xung đột và chiến tranh, thực hiện mọi hoạt động
đưa đến hòa bình hòa hợp và thông cảm quốc tế.
- Tôn trọng đời sống của
mọi loài hữu tình, tôn trọng đời sống hành tình
của chúng ta, tôn trọng môi trường sống trong sạch
của chúng ta.
- Chung sống hòa bình, cộng đồng
hợp tác, trong tinh thần hòa hợp quốc tế và tình huynh
đệ con người.
Thích
Minh Châu, 1989