Hòa
thượng đã xả báo an tường, thu thần nhập diệt vào lúc 21 giờ 45 phút
ngày 2 tháng 4 năm 1984 (tức ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) tại tại Tu viện
Quảng Hương Già Lam, trụ thế 76 tuổi đời, 56 tuổi đạo.
Chân dung Trưởng lão HT.Thích Trí Thủ
Truyền Trao Đèn Pháp
Hòa
Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật
học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng
Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc
đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là
những lãnh vực phật sự khác.
Đối với việc đào tạo tăng tài, Ngài đào tạo đầy đủ cả ba mặt Giới học, Định học và Tuệ học.
Đối
với giới học, Ngài luôn luôn vận động chư tôn đức mở các đại giới đàn
để thí giới cho các giới tử cầu thọ bao gồm cả giới tử xuất gia và tại
gia đủ cả giới Thanh văn và Đại thừa giới. Không những vậy, Ngài còn dạy
giới luật cho các giới tử một cách cẩn mật và tế nhị. Ngài đã dịch và
chú giải các luật Yết ma, Tứ phần làm tài liệu học tập cho các học tăng
của nhiều thế ở trong các Phật học viện.
Vì vậy, Ngài Giác Nhiên
và nhiều cao tăng khác ở Huế đã tặng Ngài bức hoành với bốn chữ sơn son
thiếp vàng: “Giới Châu Quảng Thí”. Nghĩa là vị Bồ tát có khả năng thực
hành bố thí rộng rãi các loại châu báu của giới pháp.
Đối với
định học, có lần Ngài hỏi anh em học tăng chúng tôi rằng: “Quý vị có
biết Đức Phật dạy pháp căn bản cho sự nhiếp tâm là pháp nào không?” Anh
em chúng tôi chưa ai kịp trả lời thì Ngài lại dạy tiếp: “Pháp Tứ niệm xứ
và Pháp ngũ đình tâm quán là pháp căn bản cho việc nhiếp tâm”.
Ngài
kết hợp nhuần nhuyễn giữa Thiền Tông và Tịnh Độ để dạy dỗ cho anh em
tăng sinh chúng tôi. Ngài dạy: “Thiền là để định tâm và kiến tánh thành
phật; Tịnh độ không phải chỉ để định tâm kiến tánh thành Phật mà còn
phải lập Tín, Hạnh và Nguyện để trang nghiêm tự thân và thế giới, nhằm
báo đáp tứ ân, cứu giúp ba cõi”. Ngài đã khuyến khích học tăng chúng
tôi, phải trang nghiêm tự thân và thế giới mỗi ngày, bằng cách mỗi buổi
tối phải cùng nhau ngồi thiền tại chánh điện ít nhất là từ nửa giờ cho
tới một giờ, và mỗi khuya cùng nhau lễ Phật 108 lạy, để nuôi duỡng và
tăng trưởng Tín, Hạnh và Nguyện.
Đối với tuệ học, Ngài đã chú
giải Bát Nhã Tâm Kinh làm tài liệu cho anh em học tăng chúng tôi học tập
(nghiên cứu Bát Nhã Tâm Kinh và trích dẫn lời dạy của Ngài).
Hòa Thượng không phải chỉ dạy chúng tôi bằng lý thuyết mà bằng chính sự thực hành của Ngài.
Chúng
tôi là những thế hệ học tăng theo học Phật học tại Phật học Viện Báo
Quốc, Huế và đã được Ngài tổ chức trao giới pháp cụ túc tại giới đàn
Phước Huệ, tại Phật học viện Hải Đức Nha Trang, năm 1973, do chính Ngài
làm đàn chủ và Hòa Thượng Phúc Hộ làm đàn đầu.
Tuy nhiên, bất cứ
lãnh vực nào mà Ngài đã dấn thân hành động, thì không phải Ngài làm cho
mình, mà vì lợi ích của nhiều thế hệ học tăng, vì lợi ích của nhiều
người, vì lợi ích của dân tộc, nhân loại và muôn loài. Hạnh nguyện của
Ngài chỉ có một là thượng cầu phật đạo hạ hóa chúng sanh, nhưng hình
thức để thực hiện hạnh nguyện ấy thì vô lượng.
Bài kệ niêm hương cúng dường vào buổi sáng của Ngài đã nói cho ta ý nghĩa ấy như sau:
“Phần hương nhất nguyện Pháp không vương
Đại nguyện đồng tham biến cát tường
Sát hải trần thân thi diệu lực
Trầm kha chướng loại tận an khương”.
“Đốt nén tâm hương dưới Phật đài
Phổ hiền hạnh cả nguyện nào sai
Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo
Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài”.
Đối
diện với kẻ ác để đấu tranh là người hùng, nhưng đi theo với kẻ ác để
che chở cho những người hiền và biến kẻ ác trở thành người hiền thì
không phải chỉ là người hùng mà là một vị Bồ tát đích thực. Điều ấy, tôi
đã học được từ vị Thầy của tôi.
"Có lẽ nhờ túc duyên hiếm có, nên mỗi bước đường đạo
của tôi đều gần như bước trùng lên dấu bước của thầy, khiến cho mỗi lần
nghĩ nhớ thời gian quá khứ của đời mình, tôi thấy bóng dáng của mình
lồng trong bóng dáng vĩ đại của Thầy”.
Giữ Tâm Bình Thường
Năm
1977, tại Phật học viện Báo Quốc - Huế, Hòa thượng dạy luật cho anh em
học tăng chúng tôi, trong giờ dạy luật Hòa Thượng nói: “Bình thường tâm
thị đạo”. Nghĩa là tu tập, ta phải giữ cho cái tâm của ta luôn luôn được
bình thường. Cái tâm bình dị, thường tại ấy chính là đạo.
Học
đạo là học cái tâm bình dị ấy nơi ta. Tu đạo là hành theo cái tâm bình
dị ấy nơi ta mỗi ngày, trong bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi , nhờ vậy
mà ta có đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh để chế ngự và chuyển
hóa tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não ngày đêm chuyển hiện ở nơi tâm
thức ta.
Hòa thượng dạy rằng: “Ta đi đến đâu, mọi người đem tâm
bình dị mà đối xử với ta, ta biết rằng, ta có thể sống lâu với người ấy
và người ấy có thể sống lâu với ta. Người ấy với ta có thể trở thành
thân hữu lâu dài. Ta có thể lưu trú lâu dài ở nơi trú xứ của người ấy để
làm phật sự”.
“Ta đi đến đâu mà mọi người đem tâm rất mực cung kính
ta, đãi đằng ta, cung đón ta với những lễ nghi trọng thể cầu kỳ, thì ta
biết rằng, trú xứ ấy ta không thể sống lâu, mọi người trong trú xứ ấy
không thể là thân hữu của ta lâu dài, sau khi hoàn tất công việc, ta nên
cảm ơn họ và tìm cách từ giã, không nên dừng chân lâu để làm phật sự ở
trú xứ đó. Tại sao? Vì sự trọng đãi tiếp rước như vậy, chúng không phải
đi từ cái tâm giản dị, bình thường mà từ cái tâm cầu kỳ, mất bình
thường. Cái gì phức tạp, cầu kỳ, mất bình thường, cái ấy không thể tồn
tại lâu dài được”.
Đó là bài học mà tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.
Giây Bìm Bị Cắt
Ở
Phương trượng Tu viện Quảng Hương Già Lam, mỗi buổi sáng ba giờ là Hòa
Thượng đã thức dậy, tĩnh tọa, uống trà và sau đó đi vào chánh điện Lễ
Phật 108 lạy, theo nghi lễ sám mà chính Ngài đã soạn để hành trì.
Ngoài
những khóa hành trì chung với đại chúng, Ngài còn hành trì riêng tại
Phương trượng. Sau những thời khóa như vậy, Ngài còn tưới cây cho những
cây kiểng trong vườn chùa. Việc tưới cây của Ngài không phải là để đối
phó với những công việc như những người khác mà là một pháp hành từ bi
rất thâm diệu.
Trước khi tưới, Ngài lượm hết tất cả những lá vàng
trên cây và trên chậu và Ngài tưới chậm rãi từ ngọn cho tới gốc và từ
gốc cho tới ngọn. Ngài không phải chỉ tưới cho cây sống mà còn làm cho
cây sống, xanh và sạch từ trên đọt cho xuống dưới gốc và từ dưới gốc cho
đến trên đọt và từng kẽ lá.
Có lần Ngài vì Phật sự phải đi xa
một tuần, đại chúng lại cử một vị khác chăm sóc vườn cây, chậu kiểng,
nhưng vườn cây, chậu kiểng đã không xanh đẹp và sạch như chính Ngài đã
chăm sóc. Trên chậu và cây có nhiều lá vàng úa, lại thêm cây bìm bìm leo
nơi cây bồ đề, đã bị một vị khác cắt đứt dây còn vắt héo trên cây, nhân
đây Ngài đã gọi anh em chúng tôi mà dạy: “Quý vị tu tập phải chăm sóc
tâm từ bi của mình mỗi ngày đừng bao giờ để khinh suất. Kinh Pháp Hoa,
đức Phật dạy: “Dĩ từ tu thân”, quý vị đã học kinh Pháp hoa rồi mà!”
Ngài
dạy: “Tất cả muôn vật từ hữu tình đến vô tình đều có sự sống, nên khi
ta ngắt một ngọn lá, chặt một cành cây, để sử dụng cho một công việc
phật sự nào đó là ta đều phải khấn nguyện và chú nguyện cho nó với tất
cả tâm từ bi của ta, trước khi ta hành sự. Nếu ta không làm như vậy, oán
khí của cây sẽ chạm vào tâm ta, khiến cho đức hạnh và tâm từ bi của ta
bị thương tổn”.
Hòa thượng dạy, người biết tu tập thì không có cử chỉ
lớn nhỏ nào mà không biểu hiện đầy đủ cả đoạn đức, trí đức và ân đức
của mình.
Ta biết tu tập, thì qua những động tác hàng ngày của
ta, giúp cho ta thành tựu được phước đức do đoạn trừ được hết thảy phiền
não mà có. Phiền não lớn thì phước đức teo lại, phiền não teo lại thì
phước đức nở ra, phiền não không còn thì phước đức viên mãn, toàn vẹn ấy
gọi là đoạn đức.
Ta biết tu tập, thì ta có giác và chiếu trong
mỗi hành động hàng ngày của ta, khiến cho cái biết đúng đắn sinh khởi
trong ta, khiến cho ta không còn rơi vào những nhận thức sai lầm khi sáu
căn tiếp xúc với ngoại cảnh, vì vậy phước đức có mặt là do trí tuệ phát
sinh trong đời sống của ta. Trí năng sinh đức, đức nuôi dưỡng trí.
Ta
biết tu tập, biết thiết lập hạnh và nguyện để làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh từ tâm bồ đề của ta, thì không có ý nghĩ, hành động và lời
nói nào của ta là không chuyển tải chất liệu từ bi. Do hành động từ bi
của ta đối với các loài hữu tình và vô tình mà phước đức của ta lớn lên
và thành tựu từ đó. Vì vậy, gọi là ân đức.
Nếu không có đoạn đức
và trí đức, ta không bao giờ thành tựu được ân đức. Đoạn đức và trí đức
của ta càng sâu, thì ân đức của ta càng lớn. Đoạn đức và trí đức của ta
càng lớn, thì ân đức của ta càng phủ khắp và thấm nhuần khắp hết thảy
chúng sanh từ hữu tình đến vô tình.
Đó là bài học mà tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.
Đối Mặt Với Một Công Án
Kinh Bộc Lưu, Đức Phật dạy các Tỷ-kheo rằng: “Khi đi qua một dòng sông, không dừng lại, không đi theo mà hãy vượt qua”.
Nếu
đi qua dòng sông ta dừng lại, ta sẽ bị dòng nước chảy xói mòn; nếu ta
đi theo sẽ bị dòng sông cuốn trôi và nhận chìm. Nên, muốn không bị dòng
sông xói mòn, cuốn trôi hay nhận chìm ta không nên dừng lại, không nên
đi theo mà hãy vượt qua.
Được biết, sau năm 1975, bấy giờ ông Mai
Chí Thọ làm giám đốc Sở Công an Thành phố HCM, mời Hòa thượng Thích Trí
Thủ làm việc, Ông Mai Chí Thọ nói với Hòa thượng rằng: “Phật giáo có
theo chính quyền không? Nếu không theo là chống. Nếu Phật Giáo chống
chính quyền, chính quyền có công an, có quân đội, có nhà tù…”. Hòa
Thượng cười và trả lời: “Phật giáo chúng tôi không theo mà cũng không
chống”.
Câu trả lời ấy là một bài học quý báu cho tất cả Tăng
Ni Phật tử chúng ta không những trong hiện tại mà còn ngay cả tương
lai. Phật giáo không xu phụ bất cứ quyền lực chính trị nào và lại càng
không lợi dụng bất cứ thế lực chính trị nào để truyền đạo. Tại sao? Bởi
vì mọi quyền lực chính trị của thế gian đều là tạm thời, nó không phải
là vĩnh cửu. Trong lúc đó đạo giải thoát, giác ngộ là vĩnh cửu và cùng
khắp. Ta không thể dùng cái vĩnh cửu và cùng khắp để chạy theo và xu phụ
cái tạm thời và giới hạn. Vì vậy, Hòa thượng đã trả lời cho ông Mai Chí
Thọ rằng: “Phật giáo không theo chính quyền”.
Và, Hòa thượng
cũng đã trả lời cho ông Mai Chí Thọ rằng: “Phật giáo không chống chính
quyền”. Tại sao? Bởi vì, trong thế gian nầy không có bất cứ đối tượng
nào là đối tượng để cho Phật giáo chống đối cả, kể cả chính quyền. Mọi
đối tượng đang hành hoạt ở trong thế gian đều đang bị ràng buộc bởi nhân
duyên sanh tử, và đang bị thúc đẩy bởi những động cơ chấp ngã và chấp
pháp. Phật giáo không hề đặt những cố chấp ấy như là những đối tượng để
chống đối mà đặt nó như là những đối tượng để thiền quán, để thấy rõ bản
chất bất thực của chúng, nhằm vượt qua, khiến cho những bản chất bất
thực ấy, không thể đánh lừa, nhằm tựu thành phẩm chất toàn giác.
Lại
nữa, trong Phật giáo chỉ có cái thấy đúng như thực đối với vạn hữu để
sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những hạt nhân xấu ác để
khỏi phải bị gặt quả khổ đau. Và trong Phật giáo chỉ có tâm từ bi, để
giúp người khác sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những hạt
nhân xấu ác để cho họ khỏi bị gặt những kết quả khổ đau ở trong đời nầy
và đời sau.
Vậy, với cái thấy ấy và với tâm từ bi ấy, Phật giáo
chẳng chống ai mà cũng chẳng theo ai, mà chỉ thể hiện cái thấy ấy, cái
tâm ấy dưới nhiều hình thức thuận nghịch để cứu người, giúp đời, chứ
không phải bám lấy cuộc đời để hưởng thụ ngũ dục hoặc chạy theo ngũ dục
trong đời để bị chúng nhận chìm trong tăm tối khổ đau.
Do đó, lời
nói của Hòa thượng “Không chống mà cũng không theo” cho ông Mai Chí Thọ
ngày ấy, không phải là một công án của Thiền học Việt Nam hiện đại cho
tất cả chúng ta thực tập để khám phá chân nghĩa thâm diệu ở thời đại của
chúng ta hay sao?!
Mỗi khi đối mặt với công án ấy, tôi thấy cuộc
sống thật có ý vị và tôi đã thấy Thầy tôi luôn luôn nhìn những thế hệ
học trò của Người để mỉm cười, dẫu rằng Người đã đi xa…
NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP TAM THẾ, HÚY THƯỢNG TÂM HẠ NHƯ, TỰ ĐẠO GIÁM HIỆU TRÍ THỦ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.