1. Nên thẳng mình ngồi ngay như ngồi trước đức Phật. Đó là thân nghiệp được thanh tịnh.
2. Miệng không nói lời sai trái, không cười đùa. Đó là khẩu nghiệp được thanh tịnh.
3. ý không tán loạn, dứt sạch tâm phan duyên. Đó là thanh tịnh ý nghiệp.
Khi
tâm an tịnh thì ngoại cảnh lắng trong, đó là khế ngộ nguồn tâm, diệu
nhập pháp lý. Khi nước lắng trong thì vẻ sáng của ngọc tự chiếu soi, mây
tan trăng tự hiển bày, đại nguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu
nghĩa. Thấu đạt ý kinh cũng chính là đến được đỉnh núi cao trí tuệ. Nếu
hành giả muốn dễ thành tựu, phải gieo trồng Đại nguyện. Khi tâm, pháp
đều quên, thì mình cùng pháp giới chúng sinh đều chung lợi lạc. Có được
như thế mới mong báo đáp ân sâu của Chư Phật.
CHÚ ĐẠI BI
(Phần kinh văn)
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
2. Nam mô a rị da
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
4. Bồ đề tát đỏa bà da
5. Ma ha tát đỏa bà da
6. Ma ha ca lô ni ca da
7. Án
8. Tát bàn ra phạt duệ
9. Số đát na đát tả
10. Nam mô tất kiến lật đỏa y mông a lị da
11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
12. Nam mô na ra cẩn trì
13. Hê rị ma ha bàn đà sa mế
14. Tát bà a tha đậu du bằng
15. A thệ dựng
16. Tát bà tát đá, na ma bà tát đa (*) na ma bà già
(*) Các bản hiện đang lưu hành, được trì tụng rộng rãi ở Việt Nam thiếu năm chữ này.
17. Ma phạt thị đậu
18. Đát điệt tha, án
19. A bà lô hê
20. Lô ca đế
21. Ca ra đế
22. Di hê rị
23. Ma ha bồ đế tát đỏa
24. Tát bà tát bà
25. Ma ra ma ra
26. Ha hê ma hê, rị đà dựng
27. Cu lô cu lô yết mông
28. Độ lô độ lô phạt già ra đế
29. Ma ha phạt già ra đế
30. Đà la đà la
31. Địa lỵ ni
32. Thất phật ra da
33. Giá ra giá ra
34. Ma ma phạt ma ma
35. Mục đế lệ
36. Y hê di hê
37. Thất na thất na
38. A ra sam phật ra xá lợi
39. Phạt sa phạt sam
40. Phật ra xá da
41. Hô lô hô lô ma ra
42. Hô lô hô lô hê rị
43. Ta ra ta ra
44. Tất lỵ tất lỵ
45. Tô rô tô rô
46. Bồ đề dạ - bồ đề dạ
47. Bồ đà dạ - bồ đà dạ
48. Di đế rị dạ
49. Na ra cẩn tri
50. Địa lỵ sắt ni na
51. Ba dạ ma na
52. Ta bà ha
53. Tất đà da
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà dạ
56. Ta bà ha
57. Tất đà du nghệ
58. Thất bàn ra dạ
59. Ta bà ha
60. Na ra cẩn trì
61. Ta bà ha
62. Ma ra na ra
63. Ta bà ha
64. Tất ra tăng a mục khư da
65. Ta bà ha
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
67. Ta bà ha
68. Giả cát ra a tất đà dạ
69. Ta bà ha
70. Ba đà ma yết tất đà dạ
71. Ta bà ha
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra da
73. Ta bà ha
74. Ma bà lợi thắng yết ra dạ
75. Ta bà ha
76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
77. Nam mô a lị da
78. Bà lô kiết đế
79. Thước bàn ra dạ
80. Ta bà ha
81. Án tất điện đô
82. Mạn đà ra
83. Bạt đà dạ
84. Ta bà ha
KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG
THÍCH TUYÊN HÓA
Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm phù đề
PHẦN GIẢNG
(CÚ GIẢI)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng
rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú
Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi. Vì kinh văn thần
chú này thuộc vào hệ mật ngôn chân ngữ. Nay để giảng giải về thần chú
này, trước tiên tôi xin đưa ra một bài kệ để thuyết minh cho ý nghĩa của
thần chú:
Đại bi đại chú thông thiên địa
Nhất bách nhất thiên thập vương hoan
Đại từ đại bi năng khử bệnh
Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền.
Nghĩa là:
Thần chú Đại bi có công năng thông cả
thiên đường, thấu cả địa phủ. Người nào thường trì niệm chú này mỗi ngày
108 biến, niệm ngàn ngày như thế thì có thể khiến Thập điện Minh vương
hoan hỷ.
Năng lực Từ và Bi của thần chú có thể chữa lành tất cả mọi tật bệnh và làm cho đài gương chiếu tội sáng ngời ngời.
*Đại bi đại chú thông thiên địa
Khi quí vị niệm thần chú này thì trời
đất đều chấn động, cả pháp giới chuyển rung. Trên thông cả cõi trời,
dưới thấu khắp cả các cõi giới địa ngục. Khắp cả mọi pháp giới trời
người đều cảm thông và tán dương công đức.
*Nhất bách nhất thiên thập vương hoan
Nếu quí vị niệm thần chú này mỗi ngày
108 biến, niệm ngàn ngày như vậy, tức là vào khoảng 3 năm. Niệm thần chú
này liên tục trong 3 năm không gián đoạn, không bỏ sót một ngày, bất
luận quí vị có bận rộn như thế nào cũng không quên niệm, thì có thể
khiến cho mười vị vua điều hành công việc ở chốn địa phủ cũng phải hoan
hỷ. Có nghĩa là từ vua Diêm La cai quản điện thứ 10, cùng tất cả các
chung sinh đang bị tội báo ở trong 10 địa ngục ấy đều được vui mừng.
*Đại từ đại bi năng khử bệnh
Năng lực Từ và Bi của thần chú này có
thể chữa lành tất cả mọi bệnh tật. Vì sao gọi là chú Đại Bi? Là vì: “Bi
năng bạt khổ”. Nghĩa là Bi có công năng làm cho mọi khổ nạn của chúng
sinh được tiêu trừ. Còn “Từ năng dữ lạc”. Lòng Từ thường đem lại niềm
vui cho chúng sinh. Vì thần chú này khả năng bớt khổ ban vui cho mọi
chúng sinh nên gọi là Chú Đại Bi. Chủ yếu nhất là công năng chữa lành
mọi bệnh tật. Bất luận quí vị bị bệnh gì, nếu quí vị trì niệm Chú Đại
Bi, thì mọi bệnh khổ đều được tiêu trừ.
Có người sẽ thắc mắc: “Tôi đã niệm Chú Đại Bi rồi, tại sao không lành bệnh?”
Quí vị chưa lành bệnh là vì quí vị chưa
vận hết lòng thành trong lúc trì niệm. Với lòng chí thành, chắc chắn quí
vị sẽ có được sự cảm ứng khi niệm chú.
*Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền
Khi quí vị trì niệm mỗi ngày 108 biến
chú Đại Bi, niệm trong 1000 ngày như thế thì Thập điện Minh Vương vui
mừng và tất cả mọi bệnh tật đều được tiêu trừ. Trong suốt 1000 ngày, tức
3 năm này, quí vị đ• thành tựu được khá nhiều công đức rồi. Bởi vì
trong 3 năm này, mỗi ngày quí vị đều gia tâm trì tụng thần chú nên không
có điều kiện để tạo tác nghiệp nhân. Quí vị không uống rượu, không ăn
thịt, không ăn ngũ vị tân.
Trong địa ngục có một đài gương báo tội
gọi là “nghiệt kính đài”, nếu quí vị gây một nghiệp ác nào thì nghiệp ấy
sẽ hiện rõ trong đài gương kia. Cũng giống như hình ảnh đang hiện ra
trên màn ảnh xi nê vậy. Ví như một người, đời này gây tội sát nhân, thì
trong gương báo tội sẽ hiện ra cảnh người ấy đang giết người. Nếu người
ấy gây nghiệp trộm cắp thì trong gương sẽ hiện hình người ấy đang đi ăn
trộm. Nếu người ấy gây nghiệp đốt phá nhà cửa người khác thì trong gương
sẽ hiện ra rõ ràng hành động đốt nhà ấy.
Còn nếu quí vị không gây tạo ác nghiệp
gì cả thì sao? Thì chẳng có gì hiện ra trong kính đó cả. Vậy nên, nếu
quí vị trì tụng thần Chú Đại Bi trong 3 năm thì khi gương nghiệp soi
chiếu đến, tội báo của quí vị sẽ được tẩy sạch. Nơi địa ngục ấy sẽ treo
lên một tấm bảng ghi rằng: “Người này đã từng trì tụng Chú Đại Bi, tội
báo của người này đều đã được hóa giải toàn bộ.”
Tất cả các vị quỷ thần trong địa ngục
đều cúi đầu lễ bái sùng kính người trì chú này như lễ bái cung kính chư
Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai vậy. Đồng thời các vị quỷ
thần ấy sẽ hộ trì người trì chú cũng như họ thường hầu cận chư Phật vậy,
và các vị quỷ thần đều thông báo cho nhau biết là không nên quấy nhiễu
người trì chú này. Thần lực của chú Đại Bi thật là không thể nghĩ bàn.
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Hàng ngày chúng ta vẫn thường tụng Nam
mô A – di - đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích – ca Mâu – ni Phật. Nhưng quí
vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không? Chắc là rất ít người biết
được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong một pháp hội
nhưng chưa một người nào có được câu trả lời hoàn chỉnh cả.
Nam – mô, phiên âm chữ Nama từ tiếng
Phạn. Trung Hoa dịch là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính đầu”. Có
nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của con về nương tựa vào chư
Phật”. Cái bản ngã của chính mình không còn nữa. Mà con xin dâng trọn
vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư Phật cho con sống thì con sống;
bảo con chết thì con chết. Con hoàn toàn tin vào chư Phật. Đó gọi là
“Quy mạng”.
Còn “Kính đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý nghĩa của Nam – mô.
Còn “Quy y” có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của mình trở về nương tựa vào đức Phật.
Nói tổng quát. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận trong khắp mười phương”.
Đó chính là bản thể của Bồ – tát Quán
Thế Âm. Quí vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì niệm. Mặc dù đó là bản thể của
Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy y với toàn thể chư Phật
trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi quí
vị trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y với Tam
Bảo thường trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho
tất cả mọi loài hữu tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy
y, kính lễ mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo.
Quí vị có biết Tam bảo là gì không? Đó
là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị nên biết rằng, trên thế gian
này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo và Tăng bảo là điều cao
thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian mà còn cao quý
đối với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời phi
tưởng phi phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật
pháp nữa. Trong mười pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên
chúng ta cần phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý,
phát khởi tín tâm kiên cố và thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi
ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp
kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời
đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị
quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là
những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Nhưng khi đã quy y rồi, quí vị phải tự
nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành, tương ứng với lời dạy của
đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu quí vị vẫn còn giữ nguyên
các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối,
nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì quí vị
không thể nào tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc
sinh). Bở vì trong Phật pháp không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể
nói: “Tôi đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không
bao giờ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền
làm điều gì tôi muốn…”
Quí vị phải thay đổi, chuyển hóa mọi tập
khí xấu của mình và tích cực thực hành những việc thiện, dứt khoát
không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị còn tiếp tục làm những
việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục.
Đạo Phật không giống như ngoại đạo. Họ
tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm tin. Nếu có niềm tin thì dù có
làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn ngược lại, nếu ai
thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi vào
hỏa ngục”.
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo
các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị
không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị
vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng
cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.”
Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc
ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Chân chính quy y Tam bảo có nghĩa là
phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa đổi mọi lỗi lầm. Như một
người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm thuần túy những
việc lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt được lợi ích
thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
có nghĩa là: “Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương”.
Khi quí vị trì niệm chú này, cũng có thể
giúp tiêu trừ được những ách nạn cho quí vị. Lúc gặp tai chướng, quí vị
hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì tai chướng ấy
liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và nếu gặp
tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai
pháp”, là một trong năm bộ chú hộ ma.
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da cũng
còn được gọi là “Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay quí vị đã
từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường trì tụng chú này, thì
thiện căn của quí vị sẽ tăng trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể
xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng ích pháp”.
Quí vị có thể niệm toàn bộ chú Đại Bi,
hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này thôi: Nam mô hắc ra đát na đá ra
dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn điều gì, thì sở nguyện
sở cầu của quí vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu quí vị không có con
trai mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ
da sẽ sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì niệm với tâm trí thành,
không phải chỉ niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít nhất
là trong ba năm. Nếu quí vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một
người, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được ngay
bạn lành. Nếu quí vị trì niệm được toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt,
nếu không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da,
cũng sẽ thành tựu những công đức không thể nghĩ bàn.
Câu chú này cũng còn được gọi là “Hàng
phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có thể hàng phục thiên ma, chế phục
ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
Tuy vậy, câu chú này không phải là “Câu
triệu pháp”. Khi quí vị trì niệm một câu chú thuộc trong “Câu triệu
pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều đến trình diện và
có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng.
Vậy nên, câu chú Nam mô hắc ra đát ra đá
ra dạ da này có công năng rất mạnh, không thể suy lường được. Nếu nói
chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
Tóm lại, trong câu Nam mô hắc ra đát na
đá ra dạ da, thì Nam mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”. Hắc ra đát na
là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da nghĩa là “Lễ”.
Nghĩa toàn câu là: “Xin đem hết thân,
tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ Tam Bảo vô tận vô biên trong
khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta phải cúi đầu đảnh lễ
thường trụ Tam bảo.
Vì sao gọi là vô tận vô biên? Vì chư
Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời hiện tại
là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là vô cùng vô tận. Cho nên
Tam bảo là vô biên vô tận.
2. Nam mô a rị da
Nam mô như đã giảng ở trên, nghĩa là “đem hết thân tâm, tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư Phật và chư Bồ – tát”.
A rị có nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa
là người xa lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam mô A rị da có nghĩa là kính
lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả các pháp bất thiện.
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
Bà lô yết đế có nghĩa là “quán” trong
danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh hiệu
Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu – hào
quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh
giới được quán chiếu, được quán sát đến.
Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát
một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát
Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là quan sát, lắng nghe âm
thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại.
4. Bồ đề tát đỏa bà da
Mọi người đều biết Bồ đề xuất phát từ tiếng Phạn là Bodhi. Có nghĩa là Giác.
Tát đỏa có nghĩa là “độ” là vượt qua (bể khổ) cũng như đưa người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải thoát.
Bồ Đề tát đỏa bà da có nghĩa là một vị
Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát và giúp cho mọi chúng sinh được giác
ngộ giải thoát như mình.
Bà da có nghĩa là “đảnh lễ”.
Da có nghĩa là khấu đầu đảnh lễ. Cúi đầu
đảnh lễ ai? Đảnh lễ các vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát cho chính
mình rồi, còn giúp cho người khác được giác ngộ giải thoát.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại
binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không
Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
5. Ma ha tát đỏa bà ha
Ma – ha có 3 nghĩa: Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng: hoàn hảo.
Ma – ha với nghĩa là Đại: tức chỉ cho người phát tâm bồ đề rộng lớn.
Ma – ha với nghĩa là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có rất nhiều người phát tâm bồ đề.
Ma – ha với nghĩa là Thắng: tức nói đến những người đã phát tâm bồ đề
rộng lớn đều đạt đến chỗ thành tựu viên mãn, được nhiều lợi lạc rất thù
thắng.
Tát - đỏa nghĩa của chữ Tát - đỏa trong
câu chú này không giống như nghĩa trong câu trên. Trong câu chú trên,
Tát - đỏa có nghĩa là “độ” – vượt qua bờ bên kia. Có nghĩa là giải
thoát. Còn trong câu chú này. Tát - đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh giả” là
người can đảm, không sợ hãi. Cũng có nghĩa là “Tinh tấn giả”, là người
tu hành rất siêng năng.
Bà - Da Hán dịch là “Hướng tha đảnh lễ”
nghĩa là: “Con xin đê đầu đảnh lễ các vị đại Bồ – tát, là những người
rất dõng mãnh, rất tinh tấn, không bao giờ sợ hãi, và nguyện phát tâm bồ
đề trước chư vị Bồ – tát này.”
Các vị đại Bồ – tát đã tự giác ngộ, giải
thoát cho chính mình rồi còn phát nguyện giúp cho vô số chúng sanh khác
được giác ngộ và giải thoát như mình.
6. Ma ha ca lô ni ca da
Ma – ha có 3 nghĩa: lớn, nhiều và thù thắng như trên đã giảng.
Ca – lô Hán dịch là “Bi”.
Ni – ca nghĩa là “Tâm”.
Hợp lại, Ma ha ca lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại bi”.
Da có nghĩa là đảnh lễ, như đã giảng ở trên. Toàn câu chú Ma ha ca lô ni
ca da có nghĩa là: “Cúi đầu đảnh lễ thần chú Đại bi tâm Đà - la – ni.”
7. Án
Án nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật.
Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn
tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn
mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.
4. Thứ tư là “Trí”: là trí tuệ, dùng
thanh gươm trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí tuệ tức là pháp môn
lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ viên mãn nhất. Còn “quán”
là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.
6. Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.
7. Thứ bảy là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo
giáo pháp chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời dạy
của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu hành đến nhiều kiếp như số
cát sông Hằng đi nữa thì vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể nấu
cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với
giáo lý chân chính của đức Phật thì trước hết, quí vị phải thông hiểu
về giáo pháp đó một cách tường tận.
8. Thứ tám là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu
quí vị có thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được sự hiểu
biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị không khế hội được diệu pháp
này, thì quí vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị có tu
hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu.
9. Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này quí
vị phải gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân thanh
tịnh, thì quá khứ quí vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi diệu và quả
thanh tịnh.
10. Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng.
Như vậy từ chữ án, xuất sinh ra mười
pháp môn vi diệu. Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ
án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính, không
dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại
Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ,
ác thần đều phải cung kính chấp trì. Công năng của thần chú thật to
lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn.
8. Tát bàn ra phạt duệ
Tát bàn ra, Hán dịch là “tự tại”. Nghĩa
là khi quí vị trì tụng thần chú này, thì Tứ đại thiên vương đều đến làm
Hộ pháp cho quí vị.
Phạt duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh tôn.
Nguyên câu chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ý là xưng tán Phật bảo.
9. Số đát na đát tả
Chữ Số có hai âm là Shù và Shùo. Người ta thường niệm là “Shù”.
Số Đát Na có nghĩa là “pháp” (Dharma).
Pháp gì? Pháp này còn gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là “Cao thượng
thắng sinh”. Có nghĩa là không có gì vượt trội hơn pháp này nữa. Thắng
sinh có nghĩa là từ pháp này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là
“Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi
diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn có một cách dịch khác nữa của chữ
Số, là “Tối thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành giả sẽ trải
qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ – tát.
Đát Na là biểu tượng của Pháp bảo.
Đát Tả là biểu tượng cho Tăng bảo.
Cho nên toàn thể câu chú án tát bàn ra
phạt duệ số đát na đát tả là biểu tượng cho Tam bảo. Có nghĩa là chúng
ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của Tam bảo. Nên khi trì niệm
đến câu thần chú này, có nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia
trì của Tam bảo.
Đát tả còn có nghĩa là dùng giáo pháp để
răn dạy các loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập quỷ thần đến mà
dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp.
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da
Xưa nay dường như quí vị luôn luôn Nam
mô với một người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với chính mình. Người
tu hành không cần phải đi Nam mô một khách thể nào khác mà phải Nam mô
ngay với chính mình.
Nam mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương.
Nam mô còn có nghĩa là đem tự ngã của
chính mình thể nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười phương. Tức
là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả mười phương.
Tất kiến lật có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết toàn tâm, toàn ý để quy y và đảnh lễ Tam bảo.
Đỏa y mông có nghĩa là “Ngã”. Đó chính
là cái Ngã của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản
ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có nghĩa
là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh quí vị, quí vị không
cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục
mạ, quí vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quí vị không nhất thiết
cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào
“đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần
phải “nhẫn”, vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhân và không có
một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải
hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”.
Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy.
A lị da ở trên đã giảng qua, có nghĩa là
“Thánh giả”. ở đây tức là phải hết lòng đảnh lễ “cái ngã” ấy của Thánh
giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy Thiên Long bát bộ đều phải
đảnh lễ cái ngã trong vô ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy bao trùm khắp
vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới
đây, tôi sẽ giảng rõ.
11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
Bà lô kiết đế dịch là “Quán”.
Thất Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ – tát Quán Thế Âm.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế
Âm, cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh hiệu này không nhất định phải là
Bồ – tát Quán Thế Âm mới được gọi là Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm, mà
nếu khi quí vị đã đạt được tự tại rồi, thì quí vị chính là Bồ – tát Quán
Tự Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ tất cả mọi loài chúng sinh,
thì quí vị chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy, một khi quí vị đã thể
nhập và vận dụng trọn vẹn pháp này rồi thì chính quí vị là hóa thân của
Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận dụng pháp này
thì chính tôi cũng là hóa thân của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Lăng đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho
núi Phổ Đà (Potala), nơi Bồ – tát Quán Thế Âm thường thị hiện. Có sách
nói núi Phổ Đà ở nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là “hoa trắng nhỏ” vì
nơi núi ấy có loài hoa trắng nở rất nhiều. Trên núi có một cung điện
được kiến tạo ở trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát Quan
Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang hoàng bằng bảy thứ châu báu:
vàng, bạc, xà cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mã não. Nhưng không phải
ai cũng đến được nơi cung điện này.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện đại từ bi.
Lăng đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường thị hiện.
12. Nam mô na ra cẩn trì
Trong câu chú này, Nam mô vẫn có nghĩa là “quy y” và “quy mạng kính đầu”.
Na ra dịch nghĩa là “Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát.
Cẩn trì dịch là “ái”, có nghĩa là tình
thương yêu. Trong ý niệm lòng Từ Bi bảo hộ, che chở cho mọi loài. Thế
nên lòng từ bi của bậc Hiền giả (Bồ – tát) thường đem đến sự bao bọc,
che chở cho chúng sinh. Trước đây tôi đã giảng về 10 loại tâm được đề
cập trong Kinh Đại Bi Tâm Đà - la – ni. Quí vị nên y cứ theo mười loại
tâm này mà công phu tu tập.
Na ra cẩn trì, Hán dịch là “Hiền ái
thiện hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất, nghĩa là thứ 6 và nghĩa thứ
10 trong 10 loại Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính và Tâm Vô
Thượng bồ đề.
Câu chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên.
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý
nghĩa gì trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này giúp
cho quí vị duy trì bản tâm thanh tịnh của mình. Khi quí vị khởi tâm
niệm tham, sân, si, mạn, nghi… thì tâm quí vị liền bị ô nhiễm, không còn
thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy,
thì tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không
nói, chắc chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn biết thì
trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó quí vị mới hiểu được. Quí vị mới nói
rằng: “Thì ra ý nghĩa của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa
là “đại quang minh” nghĩa là hào quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh” nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có
nghĩa là “Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực, quang minh
của tâm lực thường chiếu rộng khắp, mãi mãi siêu việt cả không gian vô
cùng, thời gian vô tận; từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế giới
đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy, tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”
Vâng, nhưng trừ phi quí vị không nghe
tôi giảng giải thần Chú Đại Bi thì quí vị không thể nào biết được. Tôi
sẽ giảng cho quí vị rõ. Thật là khó gặp được người nào có thể giảng giải
về Chú Đại Bi một cách rõ ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực tình
mà nói, không mấy người thể nhập được rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại
Bi hoặc là chuyển được ý nghĩa của thần chú.
Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã
không hỏi thì thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi biết
được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể nào
giảng giải cho quí vị nghe được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại
biết.
Thay vì quí vị hỏi tại sao tôi biết, thì
quí vị hãy quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không biết?
Nếu quí vị biết được lý do tại sao mình không biết, thì quí vị sẽ rõ
được tại sao tôi biết. Trái lại, nếu quí vị không thể nào rõ được tại
sao quí vị không biết, thì quí vị cũng không thể nào rõ được lý do tại
sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu vậy.
Chẳng hạn có người đã hỏi tôi rằng: “Tại
sao Thầy làm người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó mà hỏi
lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất gia? Nếu anh biết được
lý do vì sao anh không xuất gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại
xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp cũng như vậy. Thay vì quí vị
hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì quí vị hãy tự hỏi lại
chính mình tại sao mình không hiểu được. Khi quí vị đã hiểu được tại sao
mình không biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại biết được đạo
lý ấy. Nay quí vị đều là những người có nhiều thiện căn nên được dự pháp
hội giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ trì, bảo trọng cho thiện
căn của mình. Tự mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu
nhập Phật pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả.
Hiện tại chúng ta đang sống vào thời mạt
pháp. Chư Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời gian này,
lòng người đang tiến dần đến chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp
được chánh pháp, cũng không dễ gì gặp được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài
Loan có mở Đại giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh để
được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết nhiều người ở Đài
Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần phải tu hành gì cũng có thể thành tựu
đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng: “Chúng tôi cũng là những
con người như những con người khác, nếu không chịu tu hành thì làm sao
có thể tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu hành trì thì làm sao liễu
ngộ được chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng công tu
tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì trước đây đức Phật chẳng cần vào
núi Tuyết tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề
tinh chuyên thiền định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc thì Ngài
tựu thành chánh giác.
Đức Phật còn phải tu hành mới thành tựu
chánh giác. Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn tu hành
thì làm sao có thể thành Phật được? Ai ai cũng đều biết phải nhờ vào tu
hành mới đạt được Phật quả, nhưng người chân thật tu hành thì rất ít; và
ai cũng đều biết nếu không chịu tu hành thì đều có thể bị đọa vào địa
ngục, nhưng người không chịu tu hành thì không sao kể xiết. Nghiệp lực
thế gian thật là không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà
có được điều kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh tấn
lên, không nên biếng nhác, hãy siêng năng công phu, tinh cần đạo nghiệp
mới mong có ngày thành tựu. Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành
tựu đạo nghiệp thì không thể nào có được.Vì thế nên quí vị đừng ngại
gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ nên quên. Phải đánh
trống dõng mãnh lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến
công phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói về sự vi diệu của Phật
pháp. Nếu quí vị không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo
lý này đối với quí vị cũng chẳng có lợi ích gì. Quí vị có thể thâm nhập
Phật pháp từ mọi sinh hoạt trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của
thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong Phật pháp, điều gì quí vị cũng
muốn diễn bày cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất những nghĩa
lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có trình bày hết về diệu lý của Phật
pháp, nhưng nếu quí vị không tin sâu và không hành trì thì điều tôi
giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa sự hành trì cần phải thường
xuyên vào mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không lui sụt, không
biếng nhác. Đây là điều khẩn thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc
đều hướng về phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày kia sẽ
trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính mình.
Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang
minh” hay “trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười
nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”, hành
giả mới có được trí tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được quang minh.
Có được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức
là không còn tối tăm, mê muội, tức là không còn vô minh.
Sao gọi là “vô minh”, vì tâm của quí vị
không có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí vị
không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được “đại quang minh” thì
tâm quí vị liền có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có
nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô minh. Một khi vô minh đã bị chuyển
hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí tuệ chân thật
của quí vị.
Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung
Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào
ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng:
Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành
cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem
hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người
nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng
thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ
Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều
phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi
người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp
những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi…
họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh
Thiền sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của
họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng
trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí
Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa
từng có một việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy
ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế
gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá khứ thì
không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng,
anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc
vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của
nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau
trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với
cháu gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái
sinh làm con gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều
chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội”
là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia
quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta
cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn
và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu
nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó
có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời.
Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được
tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người
chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết
không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà
vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó
Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại
trong cõi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước
đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là
cổ quái thật không?
Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả
được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận
tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem,
đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí
Công biết được điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ
nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay
kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi
một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người, và
làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm
ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo
biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt
dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo
nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn
thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào
kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do
điểm này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa
này chính là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết
thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở trên”
Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà
được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của
nhau nên cũng đến dự đám cưới này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn
do kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm
heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi
nhìn vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân
quả của từng gia đình với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên
những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân
duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người
lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế
gian. Nếu quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục,
như món nợ đã vay của ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một
gia đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người
chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con
lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai
làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một
người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với
nhau như thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông
đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang
ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ
chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi
con qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng
ngũ nhãn, lục thông bảo cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng
con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài
vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của
hai người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày
nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay
bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái
chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là
bà. Còn con lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay
đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông
tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương quan với nhau rồi,
tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu
tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây).
Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm
chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của
bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và
quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà.
Anh ta sẽ không còn đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư
Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó
để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh.
Thông thường như mọi khi, cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta
kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ
chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương
quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì
từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô
ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không
còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều
có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào
biết được trong đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị
em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và
nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu
được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân
bằng cách từ bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công.
Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người
đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta
quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn
thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một mặt khác anh ta
nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là
một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho
Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
- Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu
rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh
bay ra còn con kia thì bị mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được?
Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết
Thiền sư Chí Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của
Bồ – tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành
thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ – tát, không làm chuyện
này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại
cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên
đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những
việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí
Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết
không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại
nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy.
Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát cũng
không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành
xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm
phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự
giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người
khác mà không nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự
làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình
xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn
toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lý này
vậy.
14. Tát bà a tha đậu du bằng
Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà
biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp.
Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.
“Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.
Du bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là
thanh tịnh và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh, cho nên
không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ chín
“Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là
khi quí vị vừa trông thấy một vật gì, tâm liền khởi niệm muốn chiếm
đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là trạng thái
không có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với
chủ thể cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng chuyển biến
của thức tâm.
15. A thệ dựng
A thệ dựng la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô
tỷ pháp”. Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này. Còn có
nghĩa là “vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo giáo nào có thể so sánh
được. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”,
là tâm rất cung kính và tùy thuận bất kỳ người nào mình gặp. Câu chú này
còn biểu tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp loạn tâm”. Đây chính là
pháp thanh tịnh, không chút cấu nhiễm, chính là pháp bát nhã tâm của
Quán Thế Âm Bồ – tát.
Mười loại tâm này là tướng của Đà - la –
ni, chúng ta phải đem những đạo lý này hành trì không xao nhãng và gián
đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của kinh Đại bi tâm Đà la ni thì
chắc chắn sẽ thành tựu đạo nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà già
Tát bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm Bồ – tát”.
Na ma bà tát đa. Hán dịch là “đồng trinh
khai sĩ”, là tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ – tát.
“Đồng trinh” biểu tượng cho bản tánh. Còn “khai sĩ” cũng là một danh
hiệu khác của Bồ –tát, có nơi gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp
thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp vương tử, tên gọi của hàng Thập
địa Bồ – tát.
Na ma bà già. Hán dịch là “Vô đẳng
đẳng”. Giống như ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát – nhã ba –
la – mật - đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô lượng chú, vô
đẳng đẳng chú”.
Quí vị có thể hỏi: “Cái gì không thể
sánh bằng?” “Đó là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là chư Phật
thường trụ ở khắp trong mười phương.
17. Ma phạt đạt đậu
Ma phạt đạt đậu dịch nghĩa là “Thiên thân, thế hữu”.
Câu chú này có nghĩa là: “Kính lạy chư
Bồ – tát, xin hãy duỗi lòng từ cứu giúp con. Xin các Ngài hãy là thân
quyến ở cõi trời của chúng con và là người bạn ở cõi thế gian này của
chúng con, để hộ trì cho mọi thiện pháp được thành tựu”.
Câu chú này thỉnh nguyện sự gia trì của mười phương chư Phật và chư Bồ – tát.
18. Đát điệt tha - án
Trong Bát nhã tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...”
Đát điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú
viết”. Còn dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Tâm đại bi mà nói
ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của Phạm Thiên.
Đát điệt tha còn có nghĩa là “thủ ấn”
nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở con
mắt trí tuệ của chúng sinh.
Đát điệt tha lại còn có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhãn vô lượng. Đó là ý nghĩa của “Sở vị”.
Chữ án như đã nói ở trước, khi quí vị
trì niệm trì niệm đến chữ án thì quỷ thần đều phải chắp tay cung kính,
lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án còn có công năng lưu xuất nhiều
pháp môn sau đây.
19. A bà lô hê
A bà lô hê chính là Bồ – tát Quán Thế
Âm. Có nghĩa là “quán sát”. Dùng trí tuệ để quán sát mọi âm thanh oqr
thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh. Bồ – tát Quán Thế Âm
quán sát âm thanh, tiếng kêu than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian
khi họ không thể vượt qua nổi những khổ nạn.
20. Lô ca đế
Lô ca đế nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế
Tôn”. Hợp lại hai câu trên A bà lô hê lô ca đế nghĩa là Bồ – tát dùng
trí tuệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính là danh hiệu của Bồ – tát
Quán Thế Âm.
21. Ca ra đế
Ca ra đế dịch là “Bi giả” là người có
lòng từ bi rộng lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau và
thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng sinh vơi bớt khổ đau là
một người “đại bi”. Ca ra đế còn có nghĩa là “tác giả”. Người có thể làm
cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi chúng sinh đều phát tâm bồ - đề,
phát nguyện làm những việc khó làm như hành Bồ – tát đạo để tiến tới
tựu thành Phật quả.
22. Di hê rị
Di hê rị dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi
quí vị trì tụng đến câu chú này, nghĩa là quí vị tự phát nguyện: “Con
nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ – tát Quán Thế Âm, sẽ giáo
hoá cho tất cả chúng sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài đã dạy
mà tu hành”.
Di hê rị còn có nghĩa là “Y giáo phụng
hành”. Nương theo lời dạy của Bồ – tát Quán Thế Âm cũng như Quán Thế Âm
của tự tâm để thực sự tu trì.
23. Ma ha bồ đề tát đỏa
Ma ha có nghĩa là “đại” là to lớn.
Bồ - đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được đạo lý chân chính.
Tát đoả. Hán dịch là “đại dũng mãnh
giả”. Câu này có nghĩa chư vị Bồ – tát là người phát tâm đại bồ - đề rất
dũng mãnh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề tâm nghĩa là gieo trồng
nhân giác ngộ, tu bồ - đề hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnt giống bồ
- đề đã gieo được nảy mầm, rồi mới mong gặt được quả giác ngộ, tức là
quả vị Vô thượng bồ - đề.
Đây là ý nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề
tát đoả. Câu chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm viên mãn của
chư vị Bồ – tát là do định huệ song tu. Khi Định đã lắng trong thì Huệ
cũng được chiếu sáng. Khi Huệ đã viên mãn, thì Định viên dung. Vì Bồ –
tát Quán Thế Âm đã đạt được định lực viên mãn, nên xuất sinh trí tuệ
sáng suốt. Vì Bồ – tát đã đạt được trí tuệ viên mãn, nên Ngài mới đạt
được định lực lắng trong. Không có Định thì chẳng có Huệ và không có Huệ
thì chẳng đạt được Định. Nên gọi định huệ không hai là vậy.
Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ –
tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù
nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn
nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ – tát thường siêng năng làm
các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề tâm
và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm pháp
thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô
duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính
các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một
mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn
thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không
chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát
khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho
chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ thoát cho
chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư vị Bồ – tát không có tâm
niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng,
để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn
như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát
liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ
được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài
liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được
giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua
chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả
năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ các loài chúng sinh.
Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả tư nghì.
Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đã
chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô
thượng bồ - đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm.
24. Tát bà tát bà
Tát bà tát bà. Hán dịch là “nhất thiết
lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo thủ nhãn ấn pháp, nghĩa là mang đến
mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng cách hành trì ấn pháp này, quí vị
có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài chúng sinh.
Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người trì tụng ấn
chú này. Quí vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương liền
tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên
chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì
cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với
Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí
vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ
đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”.
Người Trung Hoa đều biết có một vị Tiên,
biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng
Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn này vậy. Đạo Lão gọi
là “Phiên thiên ấn”. Bồ – tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu quí vị dụng công hành trì thì nhất
định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa mới
chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết
vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha
cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng
của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được
Bảo ấn này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công
phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì.
Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu
hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi
lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị
Tiến sĩ.
Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như
đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này
không có gì so sánh được.
Tát bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất
cả mọi loài chúng sinh”. Quí vị thấy sự diệu dụng vô biên đến như thế.
Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì
phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ là
một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi.
Có người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi
nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có người sắp
chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm vương không được bắt người
ấy chết”. Quí vị cứ thực hành, quí vị có thể giúp người kia khỏi chết,
như ng đến khi quí vị phải chết, thì chẳng có người nào giúp quí vị
thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi đã có dịp sử dụng ấn này hai lần.
Một lần ở Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu là trường hợp
cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ chết nếu tôi không sử
dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch. Một
người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta
quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn
sàng chặt tay để cúng dường chư Phật. Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan
hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại
xuất phát từ lòng hiếu đạo. Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm
trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng.
Nhưng bệnh bà quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng không được nữa. Bà
ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì. Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi
miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn chữa
trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ – tát rất linh
cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật. Với
lòng chí thành, con nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay khi chàng trai sắp chặt tay, có
người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì thế, anh
không được vào đây mà tự sát”.
Anh ta trả lời:
- “Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.
Chàng trai chống lại, nhưng người kia
không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng trụ
trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài liền phái cư sĩ
Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù lúc ấy, tôi vẫn còn là chú Sa – di.
Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới Hoà
thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không giống như những chú
tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi
người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai muốn
làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là
sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm
nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực trong công phu.
Hoà thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
- “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó xử”.
Hoà thượng trụ trì bảo:
- “Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa:
- Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa biết nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước.
Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt
trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ chính, còn tôi đi theo đường
mòn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi sửng sốt khi về
đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
- Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
- Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không
thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn quyết định cố gắng hết sức để
cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy dòng:
“Chàng trai này có tâm nguyện rất trí
thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn
cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta được sống”.
Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay, chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
- Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta chạy đến bên giường nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà ta trả lời:
- Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt
chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm không có ánh sáng mặt trời,
mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết ngày này
qua ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe.
Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa đã mòn
cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loãng để cho đỡ
đói.
Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này không?
Bà nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên:
- Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa:
- Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống
lại. Nay toàn gia đình chúng con cầu xin được quy y thọ giới với Thầy.
Bất luận nhà chùa có việc gì, con nguyện đem hết sức mình xin làm công
quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành.
Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:
- Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu thì tôi chữa.
Họ đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn
Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở Hương Cảng. Khi bố của cô
Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng ông ta chắc
chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để
cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông thưa:
- Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi bảo:
- Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.
Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp
này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã
chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương.
Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
- Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng
có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu quí vị nghĩ rằng mình có thể
sử dụng Bảo ấn để cứu mình khỏi chết là quí vị lầm. Diệu dụng của ấn
pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của
chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, thì cũng giống như chuyện
vị Bồ – tát bằng đất nung:
Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó lòng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy nên nếu quí vị dù đã thông thạo
trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công phu hành trì thêm. Vì lý
do này mà tôi ít để ý đến việc riêng của người khác nữa.
25. Ma ra ma ra
Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng
trưởng”. Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”. Đó là công năng của Như ý
Châu thủ nhãn, làm tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc đều được tốt
lành như ý.
“Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
Quí vị có thấy lợi ích vô biên của ấn
pháp này không? Vì vậy nên công năng ấn pháp này là thứ nhất trong bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Diệu dụng của Như ý Châu thủ nhãn vượt ngoài
sự diễn tả bằng ngôn ngữ.
Nếu quí vị muốn giàu có, hãy hành trì
theo thủ nhãn ấn pháp này. Một khi đã thành tựu rồi, thì quí vị sẽ có
được mọi thứ và không còn bận tâm vì nghèo khổ nữa. Quí vị luôn luôn
giàu có và được vô lượng phước lạc.
26. Ma hê ma hê rị đà dựng
Ma hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý”
“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.
“Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma hê ma hê cũng còn có thể dịch là “tự
tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền, không
lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an vui.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết
ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được
năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này
thực là vô lượng vô biên.
Rị đà dựng là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”.
Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này thành tựu,
sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán
thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!
27. Cu lô cu lô yết mông
Cu lô cu lô. Hán dịch là “tác pháp”,
hoặc dịch là “tác dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là “xuy loa giải
giới”. Đây ta chính là Bảo loa thủ nhãn ấn pháp.
Nay chúng ta đang sống trong thời mạt
pháp. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là khế hợp với
chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra không phải thế. Chú Đại Bi
là gọi thay cho bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú Đại
Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể
của chú Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm chú Đại Bi mà không hành
trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có chân,
nên không thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ biết hành trì bốn mươi
hai thủ nhãn ấn pháp mà không trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người có
chân mà không có tay, không làm gì được cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy
nên để liễu triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị phải thông đạt bốn mươi
hai thủ nhãn ấn pháp rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là
người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật.
Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
Hiểu như thế cũng chẳng ích lợi gì cả.
Cũng giống như người có thân thể nhưng chẳng có tay chân gì cả. Quí vị
đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho chúng hoạt động phối hợp
với nhau mới làm nên phước đức được.
Bảo loa thủ nhãn ấn pháp là dùng để tác
pháp khi quý vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa ấn pháp này.
Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh vang lên tận cõi trời, thấu
tận địa ngục. Khắp cõi nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng. Bất
kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này đều ở trong sự điều khiển của người
trì ấn pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải tuân phục, không thể xâm
hại. Đây còn gọi là sự kiết giới. ấn pháp này còn gọi là “tác dụng
trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa
ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành
vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu
khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng
trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay chúng ta đã hiểu được chú Đại Bi,
chúng ta nên chí thành và phát tâm kiên cố hành trì bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.
Yết mông là tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ
của Đại phạm thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng văn pháp
ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của Đại phạm thiên.
Yết mông là tiếng Phạn. Hán dịch là
“biện sự”, cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc có
công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc công đức cho mọi người
cũng chính là tạo công đức cho chính mình. Bồ – tát thực hành hạnh tư
lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho mình và giác ngộ giải thoát
cho người khác.
Câu chú này nói đến sự thực hành lục độ
và vạn hạnh. Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp. Hãy tưởng tượng
quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng. Tay quí vị cầm cành hoa
sen và miệng trì niệm chú Yết mông yết mông...
Không những quí vị trì tụng chú mà còn
hành trì mật ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này, quí vị mới có thể tạo nên
mọi công đức. Khi quí vị trì tụng chú Đại Bi, đồng thời cũng thông hiểu
được cách hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì quí vị mới có thể
thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng bất khả tư nghì, không bao giờ nói
hết được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy thì nó phải có ngần mé.
Mà những điều mầu nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu và
kết thúc. Với sự trì niệm Yết mông, quí vị có thể thành tựu được vô
lượng công đức. Trong nhiều đời sau, quí vị mãi mãi được trang nghiêm
bởi hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn được hộ trì.
Sự vi diệu, mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận.
28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế
Độ lô độ lô. Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua biển khổ sinh tử. Còn dịch nghĩa “minh tịnh”.
Khi đã vượt qua biển khổ sinh tử rồi,
quí vị sẽ đạt được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh, đến
được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong bản thể sáng suốt
thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rõ được tất cả
mọi pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ chấm dứt được vòng sinh tử. Với đại
định, tâm quí vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi quí vị có
được định lực chân chánh thì có thể vãng sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng,
đó là thế giới Cực Lạc.
Đây là Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhãn ấn
pháp, là diệu pháp Đà - la – ni do Bồ – tát Nguyệt Quang tuyên thuyết.
ấn pháp Nguyệt Tịnh thủ nhãn này có công năng đưa mọi người đến chỗ sáng
suốt và an lạc.
Phạt già ra đế là Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp.
Phạt Già Ra đế. Hán dịch là “Quảng bác
trang nghiêm”, còn có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ sinh tử”.
Nếu quí vị tu tập hành trì Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp này thì quí vị có
thể vượt qua biển khổ sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu quí vị không
công phu hành trì ấn pháp bàng bi thủ nhãn này, thì không thể nào vượt
thoát bể khổ sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được.
29. Ma ha phạt già da đế
Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”.
Pháp là quảng đại, tối thắng và đạo cũng
quảng đại, tối thắng. Pháp đạo là chân lý vượt lên trên tất cả mọi sự
thù thắng nhất trên đời.
Đây là Bảo Kích thủ nhãn ấn pháp. ấn
pháp này có công năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo. Công
năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có thể bảo vệ quốc
gia chống nạn ngoại xâm. Nếu quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu
quí vị hành trì ấn pháp này thì vô hình trung, quân giặc bắt buộc phải
rút lui.
30. Đà la đà la
Tiếng Phạn rất khó hiểu. Ngay cả những
ai đã học tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật chú và
giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút ít thần chú Đại Bi
mà thôi.
Đà là đà la là Tịnh bình thủ nhãn ấn
pháp. Trong tịnh bình này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng
cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh trong sáu đường.
Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh tật gì, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm
rưới nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai nạn ấy.
Đà la đà la. Hán dịch là “Năng tổng trì
ấn”, là tâm lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát Quán Thế Âm
dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp và Dương chi
thủ nhãn ấn pháp – tất cả ba ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn thể
chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi tam đồ lục đạo.
31. Địa lỵ ni
Địa lỵ ni. Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ
nhất là “thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh liệt. Cũng có nghĩa là “tịnh
diệt hoặc khiết tịnh”.
“Thậm dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng tĩnh.
Còn dịch là “Gia trì và thôi khai”.
- “Gia trì” có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được chuyển hoá, hướng về phụng hành theo thiện pháp.
- “Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ.
Đây là Cu thi thiết câu thủ nhãn ấn
pháp. Gọi tắt là thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ
thần, thiên long bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu quí vị công phu
hành trì thành tựu thủ nhãn này, thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ
có mưa ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành
giả muốn mưa gió đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ hết ngay.
Quí vị sẽ nói: “Tôi không tin như vậy”.
Đúng vật! Đó chính là lý do mà tôi muốn nói cho quí vị nghe, tất cả chỉ
là vì quí vị không tin. Không có niềm tin và không ở trong cảnh giới này
thì khó lòng hiểu nổi.
Nếu muốn, quí vị có thể hỏi những người
vừa mới từ Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài Loan. Khi tôi
nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện thoại, họ cho biết trời đang
mưa và rất lạnh. Họ mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi bảo
họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra. Họ lại thắc mắc:
- Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao?
Tôi chỉ nói vắn tắt:
- Quí Phật tử hãy đợi xem trời có tạnh mưa hay không?
Ngay khi tôi vừa cúp điện thoại, thì
trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ. (Những ai đã đến
Đài Loan năm 1969 để dự giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện này. Trời
mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53
ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự viện không còn chất
đốt, một khi củi đã bị ướt rồi, thì không còn cách nào để sưởi cho khô
lại được. Tuy nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở trên, đúng ngay lúc
chúng tôi vừa chấm dứt cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện ra, bầu trời
trở nên sáng trong và khí trời trở nên ấm áp liền. Chú thích của người
dịch từ Hoa văn sang Anh Ngữ).
Thực ra, đó chẳng phải là gì khác, chính
là năng lực của thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Quí vị chỉ cần kiết ấn và
gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời sẽ dứt mưa ngay. Loài rồng
sẽ chấp hành theo lệnh của quí vị và chỉ khi quí vị đã thành tựu ấn
pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ nhãn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo
ấn pháp này và đình chỉ việc làm mưa liền.
Quí vị sẽ nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng
là như vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho quí vị nghe và tôi đang
nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là chuyện nói đùa.
32. Thất phật ra da
Mỗi khi quí vị niệm Thất Phật ra da thì
toàn pháp giới này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm Thất Phật
ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao trùm cả vũ trụ.
Thất Phật ra da được dịch là “phóng
quang”. Còn dịch là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn “Isara” như trong
chữ “Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”, vì có quán chiếu thâm
sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu quí vị không có sức quán chiếu thâm sâu,
thì quí vị sẽ không đạt được năng lực tự tại.
Quán chiếu nghĩa là hướng vào bên trong
tự tâm mà công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên ngoài. Nghĩa
là hướng vào bên trong mà quán chiếu không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta có
hiện hữu hay không?”. Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị hay
không? Quí vị có làm chủ được mình hay không? Mặt mũi xưa nay của ông
chủ có hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm thể tánh thanh tịnh có
hiện hữu hay không? Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là quí vị
đạt được tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có nghĩa là quí vị không có
được tự tại.
Sự phóng quang cũng mang ý nghĩa tự tại.
Nếu quí vị đạt được năng lực tự tại, thì quí vị có thể phóng quang. Nếu
chưa có được năng lực tự tại, thì không thể phóng quang được.
Thất Phật ra da cũng được dịch là “Hoả
diệm quang”, cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng không phải là lửa
phát sinh từ tập khí phiền não, như quí vị thường nói: “Tôi vừa nổi nóng
như lửa”. Đó cũng không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn nộ,
căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ
trí tuệ tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí tuệ chân chính hiển lộ khi
lửa vô minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.
Khi quí vị trì tụng Thất Phật ra da tức
là quí vị đang phóng quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có được năng
lực tự tại. Không có năng lực tự tại thì quí vị không thể nào phóng
quang được. Hãy nhớ kỹ điều này.
Đây là Nhật Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp.
ấn pháp này có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rõ. Dùng ấn
pháp này khiến cho mắt được sáng lại.
33. Giá ra giá ra
Giá ra giá ra dịch nghĩa là “hành động”.
Đó là hành động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành quân. Hành
quân là một mệnh lệnh nếu quí vị không tuân hành, có nghĩa là chống
lệnh.
Đây là Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp. Khi quí
vị rung chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông cả thiên đàng,
chấn động cả địa giới. Nếu quí vị cần thực hiện việc gì, chỉ cần rung
chuông lớn, các loài chư thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều tuân
theo mệnh lệnh của quí vị. Chẳng hạn như khi có động đất, quí vị chỉ cần
rung chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất không được rung lên như
vậy”, trái đất trở về trạng thái yên bình ngay.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một
âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu
thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung
vang lên trong không gian.
34. Ma ma phạt ma la
Ma ma. Hán dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó
chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo
đảm chắc chắn phải được thành tựu”.
Ma ma là Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở
Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các
vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ để thuyết pháp.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng
trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh
tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng
và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều
công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết
hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp này.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở
về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về
đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng
không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi
nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở
San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón
mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Bình thường, tôi chẳng muốn đến phi
trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên tôi ra
phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử của
tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi
họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ rằng:
“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.
Nay họ phải tự độ chính họ, họ đã ra đi,
nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường về
chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó, đi theo đường này, đó
là đường về chùa”.
Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:
“Bỏ quên kinh chẳng có gì quan trọng.
Điều quan trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm
người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về. Sao vậy? Vì tôi đã mua
bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều
không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ – tát
không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả
các giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần
phải thanh toán hợp đồng.
Quí vị nên nhớ một điều. Những người thọ
giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo Mỹ
quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như những
kẻ tự cho mình là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại
gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây và
muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông
hát”. Ông ta chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.
Phạt ma ra là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn như núi Tu Di.
Phạt ma ra. Hán dịch là “Tối Thắng Ly
Cấu”, có nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả mọi cấu nhiễm ở
thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không có gì có thể sánh với
pháp này và tuỳ tâm nguyện của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn.
Đây là Hoá cung Điện thủ nhãn ấn pháp.
Nếu quí vị hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời đời quí vị sẽ
được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như trong một cung điện), không
còn phải thọ sinh vào các loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh nữa.
Công dụng của sự thành tựu ấn pháp này là đời đời được sống cùng chư
Phật.
35. Mục đế lệ
Mục đế lệ là Dương chi thủ nhãn ấn pháp
của đức Phật. Đó là nhánh cây mà quí vị thường thấy Bồ – tát Quán Thế Âm
cầm ở một tay, còn tay kia Bồ – tát cầm một tịnh bình. Nhành dương này
được Bồ – tát nhúng vào tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả mọi chúng sinh
bị đau khổ. Nước này không như nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng
sinh nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều lợi lạc. Nước cam lồ có
thể giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt
được thanh lương.
Mục đế lệ còn dịch nghĩa là “giải
thoát”. Đó là giải thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng ngại. Nên
Bồ – tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhãn ấn pháp này để giúp
giải thoát cho chúng sinh khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất
như ý. Bề ngoài, chú này dường như không có gì quan trọng lắm, nhưng một
khi quí vị công phu hành trì ấn pháp này thành tựu rồi, thì không những
quí vị có thể giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn
mà còn có thể hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma ngoại
đạo được thấm nhuận nước cành dương này, họ tự nhiên hồi tâm hướng
thiện, thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dương chi thủ nhãn có diệu
dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn.
Giọt nước cam lồ từ bàn tay Bồ – tát
Quán Thế Âm không những chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi bệnh tật, khổ
nạn mà còn có một diệu dụng khác, khi một người sắp chết, nếu có phước
duyên, được Bồ – tát Quán Thế Âm rảy nước lồ thì có thể sống lại. Tất cả
các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo nếu được nước cam lồ tưới xuống
cũng được hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình, mà khi được nước cam lồ tưới
tẩm còn được nảy mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là loài
hữu tình sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng của Dương chi thủ
nhãn ấn pháp.
36. Y hê y hê
Y hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.
Nghĩa là một khi quí vị nhờ ai làm việc
gì đó, họ đều ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ đều
vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”. Nghĩa là trong tâm hành giả
ước nguyện điều gì, nhờ năng lực của chú này đều được thành tựu. Câu
chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la vương, là một Thiên ma ngoại đạo
thường cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải cung kính chắp tay đến
nghe lời chỉ giáo khi nghe có người trị tụng thần chú này, không dám
trái nghịch. Thế nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê, thì Ma – hê –
thủ – la vương liền đến, bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào, vị
này liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở nguyện của người trì chú.
37. Thất na thất na
Câu chú này được dịch là “Đại trí tuệ”,
cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo
cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh
không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều
là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang
Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn
nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô
minh.
Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng
tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá
mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn
mạnh hơn.
Những người có trí tuệ không có lối suy
nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà.
Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của
mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ
thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí
tuệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường
chánh lộ và tránh con đường tà vạy.
Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc
làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị kôhng thể
nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết
sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ
chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn
toàn sự non yếu trí tuệ.
Ồ! Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa
là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề có tư
tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nghĩa là:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá
nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế
tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi
tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là
vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà
có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng
biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng
tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng
trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp
nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như
dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng
sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà
quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí
tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng
cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng
Nghĩa là:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi trong công phu mà quý vị đạt được
định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước
trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng
nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy, khi một người không còn bị
vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì
nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại
trí tuệ.
Người có trí tuệ thường thành công trong
bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí tuệu thường bị thất bại trong bất
kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô cùng quan
trọng.
Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu
muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con
người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm
một việc sai lầm xong thì rõ:
- Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời:
- Tôi không rõ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu
sáng suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng
họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
- Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật
là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có trí tuệ, không đạt
được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ
nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa;
bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
-
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật
bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con
dao bén hay còn được ví như thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất
nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng
cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả.
Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm
lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến
thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy?
Vì quý vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí
tuệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý
vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi
quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều
bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên
tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát
xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị
không có thanh gươm trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy,
thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất
liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân
tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo
ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa
là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ.
Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến
hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản
nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận
điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại
trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự
hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được
đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi,
hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng một lần rồi là không còn
quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào
quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần
nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải
dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quý vị chiếu sáng như một
đài gương trong.
Người có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện
tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì
mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc
đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở
hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ,
nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công
phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ
nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc
rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí
tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí tuệ thế
gian và trí tuệ xuất thến gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí
biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi
nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp
lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất
đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không
bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói:
“Trong dương có âm”.
Cũng vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu
muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên
trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy
một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng
anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ
mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người
như vậy.
Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự
chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay không.
Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác sai
sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ
bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và ngu muội có một mối quan hệ
trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí
tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong vô minh
có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như
thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là
trí tuệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như
khi quý vị nâng thanh gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi
quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai
mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm
kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao
giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu
tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn
cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được
cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ
vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử
dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía
cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý
vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi.
Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay
chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay.
Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng
nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.
Thất na thất na là “đại trí tuệ” và còn
có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn
thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A
Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình
tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ
Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô
số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng
cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay
không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là
quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị
phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự
mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự
thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành
Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi
người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện
một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con
nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng
sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc
đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng
sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham
ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên
quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình
phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có
thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai
chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời
phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong
tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của
mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn
ngay từ trong lỗ chân lông.
Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng
mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì
không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà
không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo
trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người
hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát
nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động
tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở
nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:
…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.
Nghĩa là:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta
cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với
những việc hằng ngày quý vị thích làm.
38. A ra sam Phật ra xá lợi
A ra sam dịch là “Chuyển luân pháp
vương”, tức là vị Đại Pháp Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường
tuyên thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm vi diệu,
không ai có thể diễn nói tường tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được
nghe giảng từng chi tiết rõ ràng.
Đó là ý nghĩa của câu chú này. Đây là
“Chưởng thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý vị nên hành trì ấn
pháp này. Khi thành tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền thân cận bên
Phật để học hỏi giáo pháp.
Có rất nhiều cách để giảng giải chú Đại
Bi. Chẳng hạn có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn này là danh hiệu
của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng: Chưởng thượng hóa Phật thủ
nhãn này là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Đây chính là trường hợp sai
một ly đi một dặm. Sao vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một vị Bồ tát nào
cả. Quý vị có thể đọc hết cả Tam tạng kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ
chẳng thấy vị Bồ tát nào có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát
cả.
Có thể nói như thế này: Chưởng thượng
hóa Phật thủ nhãn ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể
gọi đó là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu gọi như thế là một sai lầm.
Nên khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý
vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn
Bảo Bát không phải là danh hiệu của một vị Bồ tát. Mới đây tôi được xem
qua bộ “Đại Bi Kinh giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi sang, trong kinh này họ
đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp là danh hiệu của bốn mươi hai vị
Bồ tát. Đó hoàn toàn sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp trong kinh
là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học Phật pháp nên ghi nhớ kỹ điểm
này, không nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực hiển nhiên. Trong
khi giải thích Phật pháp cho người nghe, quý vị phải có một lập trường
vững chãi, chính xác về những gì mình đưa ra, còn không quý vị sẽ phạm
sai lầm.
A ra sam là Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành.
Quý vị lại hỏi: “Bồ tát nào?”
Đây chẳng phải là một vị Bồ tát nào
riêng biệt cả. Bất kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
thì người ấy chính là Bồ tát. Bất luận người nào không tu tập bốn mươi
hai ấn pháp thì người ấy không phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu thì có thể minh chứng rõ ràng
quý vị đã dự vào hàng Bồ tát rồi.
Phật ra xá lợi dịch là “giác thân tử”.
Đây là Sở châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn pháp, là pháp môn
của chư vị Bồ tát tu tập. Khi Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu, thì
chư Phật trong mười phương nhiếp thọ và tiếp dẫn hành giả đến các thế
giới Phật khắp trong mười phương.
39. Phạt sa phạt sâm
Phạt sa, phạt sâm dịch là “Hoan ngữ hoan
tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ khi giảng nói. Còn dịch nghĩa là “Đại
trượng phu” và “Vô thượng sĩ”.
Đây là Bảo cung thủ nhãn ấn pháp. Khi
hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu là người tại gia thì có thể được làm
quan cận thần, người xuất gia có thể chứng được quả vị A la hán.
40. Phật ra xá da
Ở câu trên, Phật ra xá lợi. “Xá lợi”dịch
nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật ra xá da, “xá da” dịch là
“Tượng”: con voi. Nghĩa là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm thể quý
vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là Pháp vương tử. Quý vị
có thể là Pháp vương tối cao trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý
nghĩa của câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng vương cao quý.
Phật ra xá da là nói về bổn thể của đức
Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ
tát Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên Bồ tát đã đảnh
lễ đức Phật A Di Đà trong khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A Di
Đà phóng hào quang để tiếp độ cho người trì chú này.
Phật ra xá da là Tử liên hoa thủ nhãn ấn
pháp. Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên hoa thủ nhãn, Thanh
liên hoa thủ nhãn, Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành
tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ được diện kiến mười phương chư Phật. Vì
vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.
41. Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô ma ra. Hán dịch là “Tác pháp như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.
Đây là Kim trọc ngọc hoàn thủ nhãn ấn
pháp. Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm
nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi,
thì mọi việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.
Còn “Tác pháp mạc ly ngã” có nghĩa chính
hành giả là người tu tập, không phải người nào khác. Nên khi hành giả
tác pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời
khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có
ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc
ly ngã”.
Hành trì “Kim trọc ngọc hoàn ấn pháp”.
Có thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng theo sự giáo hóa của hành giả.
Dạy họ tu pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không sai lệch.
42. Hô lô hô lô hê rị
Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp vô
niệm” cũng dịch là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô lô hô lô ma ra đã
giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi tác pháp vẫn còn khởi
lên ý niệm. Còn trong câu chú Hô lô hô lô hê rị thì vắng bặt sự khởi
niệm khi tác pháp. Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn khởi niệm tức là
còn vọng tưởng. Nếu hành giả không khởi niệm, tức là không còn vọng
tưởng nên đạt được khả năng “tác pháp tự tại” và trở thành người có năng
lực Quán Tự Tại. Đó chính là vị Bồ tát thường quán sát âm thanh ở thế
gian để cứu độ một cách tự tại, Bồ tát Quán Thế Âm.
Câu chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp,
là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này
có công năng giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai ương bệnh hoạn.
Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì
chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi
bệnh. Nếu bệnh không lành, thì phải quán sát lại toàn bộ nhân duyên. Nếu
gặp duyên lành, khi quý vị uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được
lành bệnh, là do đã đặt hết niềm tin vào Bồ tát Quá Thế Âm. Nếu không
được lành bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin nơi Bồ tát.
Sự thực là như vậy, nay tôi sẽ truyền
pháp này cho quý vị luôn. Để cho ly nước có trì chú Đại Bi, có được năng
lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà
chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba
lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được
khỏi hẳn. Có khi bệnh không lành, có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy
thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân
duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại
Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả,
thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ
tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.
Nói chung có vô lượng nhân duyên để tạo
thành pháp duyên cơ bản này. Nếu người bệnh đã có công phu hành trì và
phát tâm chí thành, khi uống nước có trì chú vào là liền khỏi bệnh. Còn
nếu quý vị có tu tập nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu sự tin tưởng vào
chú Đại Bi thì dù uống nước đã trì chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn nếu
quý vị có tâm chí thành và dù không tu tập đi nữa, thì khi uống nước đã
trì chú cũng có được sự lợi ích. Những người vốn đã tạo nghiệp chướng
sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực
để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã
trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn. Đó là năng lực do
thường xuyên trì niệm chú Đại Bi, đã tạo ra một năng lực cảm ứng đạo
giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.
Thế nên bất luận trường hợp nào, có
trùng trùng duyên khởi quyết định sự thành công. Đừng nghĩ rằng: “Tôi đã
hành trì Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, tôi đã trì chú Đại Bi vào trong
nước, tại sao chẳng có chút nào hiệu nghiệm?”
Đó chẳng phải là nước trì chú Đại Bi
không có hiệu nghiệm. Chỉ vì công phu của quý vị chưa được đắc lực, nên
hiệu quả không được bao nhiêu.
Có một số phái ngoại đạo cũng dùng pháp
trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh ứng. Đó
là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma khiến cho người được lành bệnh
tin vào họ, rồi dẫn dắt vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại đạo. Vì
thế, tuy cũng hành trì một pháp môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.
Dùng nước Đại Bi để chữa bệnh cho người
là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp này
trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn luôn
giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn
tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi
chữa lành bệnh của chúng sanh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra
được sự cảm ứng vô cùng lớn lao”.
Nếu quý vị khởi niệm như thế, nghĩa là
quý vị đã khởi dậy ngã chấp. Với ngã chấp ấy, liền bị rơi vào ma chướng,
dù quý vị không có tâm niệm ngã chấp nhưng rất dễ bị gặp ma chướng khi
tu tập pháp môn này. Bệnh nào cũng do nghiệp chướng hoặc ma chướng. Nếu
bệnh vì nghiệp, thì chẳng có vấn đề gì khi quý vị chữa trị cho họ. Còn
nếu bệnh do ma chướng, khi quý vị chữa trị cho họ có nghĩa là quý vị
tuyên chiến với ma vương, nó có thể hãm hại quý vị. Nếu đạo lực của quý
vị chưa đầy đủ, quý vị có thể bị thu phục vào cảnh giới của ma. Còn nếu
quý vị có được đạo lực và tạo được đôi chút ảnh hưởng với chúng, thì
chúng sẽ liên tục tìm mọi cách để đánh bại quý vị.
Tôi vốn thích chữa bệnh cho mọi người
nên khi có ai bị bệnh, tôi tìm mọi cách để chữa cho họ. Nhưng sau đó,
tôi phải đối đầu với ma chướng rất trầm trọng. Ở Mãn Châu, có một loài
thủy quái muốn dìm chết tôi, nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có 50 – 60
người bị chết và hơn 800 căn nhà bị thủy quái này phá hủy. Sau đó, trên
đường đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy quái đó lại tìm cách lật
thuyền của tôi, chỉ chút xíu nữa là tôi biến thành thức ăn của cá. Từ
đó mỗi khi đi hoằng hóa đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh.
Thế nên chữa bệnh là cách tốt nhất để
kết duyên, nhưng đó cũng rất dễ kết oán với quyến thuộc nhà ma. Nó có
điểm tốt và cũng có điểm không hay. Nếu quý vị làm việc đó mà tâm niệm
không vướng mắc vào bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì quý vị
có thể xoay chuyển mọi tình huống. Còn nếu quý vị không tự chuyển hóa
mọi tâm niệm của chính mình khỏi bốn tướng trên thì rất dễ rơi vào ma
chướng. Cho nên, kết duyên với chúng sanh qua việc chữa bệnh cho họ là
một vấn đề đòi hỏi năng lực tu tập rất cao.
43. Ta ra ta ra
Quý vị nghe âm vang của câu chú này rất
hùng, phải không? Ta ra Ta ra dịch là “Kiên cố lực”, là thần lực rất
mạnh mẽ, không một thứ gì có thể lay chuyển được.
Kiên cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma ngoại đạo.
Đây là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp. Công năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các loại ma oán.
44. Tất lỵ tất lỵ
Tất lỵ Tất lỵ có ba nghĩa: Thứ nhất là
“dõng mãnh” như trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn luôn chiến
thắng, không hề bị đánh bại. Nghĩa thứ hai là “thù thắng” nghĩa là vượt
lên trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba nghĩa là
“cát tường”. Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới có được sự thắng
vượt mọi chướng ngại, mới có được sự cát tường.
Tôi thường nói với các đệ tử của tôi
rằng khi làm bất kỳ việc gì, dù ở cương vị nào cũng phải phát tâm dõng
mãnh, thắng vượt chứ không bao giờ được thoái thất. Nếu ai lui sụt, đừng
trở về gặp mặt tôi nữa. Những người yếu đuối, bại hoại thì có ích gì?
Họ chẳng khác gì một thứ mà người Quảng Đông thường gọi là “thủy bì” là
túi da đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc thì gọi là “thảo bao”, là cái
túi rơm để đựng hạt giống mềm yếu và vô dụng. Nên hãy nhớ điều này: bất
kỳ ai muốn phát nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải luôn luôn vượt
thắng mọi điều, phải có tâm kiên cố như chùy Kim Cang vậy. Còn như “thủy
bì” và “thảo bao” thì không thể nào theo nổi.
Tất lỵ tất lỵ là Hợp chưởng thủ nhãn ấn
pháp. Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ lang, sư tử, nhân cùng phi
nhân ph1t tâm kính ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải thực sự có tâm dõng
mãnh, vượt thắng và tâm bất thối chuyển. Công năng của ấn pháp này không
phải là ở chỗ ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì.
45. Tô rô tô rô
Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ thủy”.
Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây tôi đã giảng về
diệu dụng của nước cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói được no
đủ và mọi tâm nguyện đều được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ
nhận được nhiều điều tốt lành khác nữa.
Nước cam lồ này còn gọi là “Bất tử
dược”. Nếu có người sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống lại.
Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không có duyên lành.
46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ
Bồ đề dạ. Hán dịch là “Giác đạo”. Muốn
thành tựu giác đạo thì trước hết, quý vị phải có được giác tâm. Nếu
không có giác tâm, thì không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác ngộ.
Hành giả trước hết phải có tâm liễu ngộ chân thực rồi mới có thể tu tập
đến chỗ thành tựu đạo nghiệp được. Hai câu chú này gọi là Bất thối kim
luân thủ nhãn ấn pháp. Đó chính là tâm bồ đề kiên cố không bao giờ thoái
chuyển.
Từ nay cho đến khi thành tựu quả vị
Phật, quý vị phải phát tâm dõng mãnh ngày càng tinh tất hơn. Đừng nên
dừng lại hoặc lui sụt. Chẳng hạn như khi quý vị nghe giảng kinh, hãy
khởi tâm niệm rất khó có dịp được nghe giảng kinh Phật. Rất hiếm khi
được gặp pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có vẻ bình thường, nhưng nếu
quý vị lắng lòng suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng. Thử xem có nơi đâu
trên thế giới này có được một pháp hội tinh tấn như thế này, ngày nào
cũng đến đây để nghe giảng kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới mà
pháp âm tuôn trào như thác, như sông mãi không ngừng như ở đây?
Nên khi đã có duyên ngặp gỡ được pháp
hội, quý vị phải thu xếp công việc, dù có bận rộn bao nhiêu, bất luận
pháp sư giảng đề tài gì, người nào giảng cũng phải đến nghe. Đừng có
phân biệt giữa pháp sư giảng hay và người giảng kém, rồi chỉ đến nghe
người giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên trì đến nghe bất luận pháp sư nào
giảng, lâu ngày chày tháng, chắc chắn quý vị sẽ thâm nhập được vào dòng
đạo lý chân thật. Dù ai giảng đi nữa, quý vị cũng nên đến nghe để hộ trì
cho pháp hội. Nếu một tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý vị cũng nên
tham dự cả bảy đêm. Đừng nên lười biếng!
Pháp môn này khó gặp được đã từng hằng
triệu kiếp nay rồi. Một khi đã có duyên được gặp thì phải nên tinh tấn
tu học. Sự tinh tấn chính là “tâm Bồ đề” kiên cố dõng mãnh vậy.
Nếu bỏ mất tâm Bồ đề mà mong ngày thành
đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong Kinh Hoa
Nghiêm, đức Phật dạy:
“Vong thấ Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma nghiệp”.
Nghĩa là: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việ ma vậy”.
Về bất thối, có ba dạng:
- Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả
đã chứng quả A la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa, Nếu
hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn rơi lại hàng A la hán
nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại
hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng
sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả
vị Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy
hoàn toàn đúng.
- Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành
giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn muốn
tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất. Khi
hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương
rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt.
Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất thối là tâm lượng của hành giả
không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”,
không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi nữa. Niệm
bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm kiên
cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố
là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô
niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm
vi mật hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với
hạnh bất thối.
- Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực
hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không hề rời
bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang nguyện, thực
hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn.
Đứng trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân
thủ nhãn ấn pháp, thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị
sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì!
47. Bồ đà dạ - Bồ đà dạ
Câu chú này với câu trước giống nhau, chỉ khác âm giữa Bồ đà dạ. Hán dịch là “trí giả” và “tác giả”.
- Trí là hiểu biết chân chính, là trí tuệ.
- Giác là sự tỉnh thức.
Người có được sự hiểu biết chân chính là người đã giác ngộ đích thực và có được trí tuệ.
Đây là Đảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn
pháp. Chữ hóa Phật trong Dảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp chính là
“giác giả”. Vị Bồ tát hành trì thành tựu Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp
cũng chính là “trí giả”. Cơ bản, “trí” và “giác” vốn chẳng khác nhau.
Giác là sự giác ngộ, là giai đoạn sau của cái biết tròn đầy chân thực (trí).
Tri là cái biết toàn triệt, là giai đoạn
trước của giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp
thành tựu rồi thì quý vị sẽ là người có trí tuệ chân chính, là người đã
tự mình giác ngộ rồi. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì mười phương chư
Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho quý vị trong tương lai sẽ chứng được
quả vị Phật.
Trong khi đang niệm Phật hoặc trì chú,
hoặc tọa thiền, hành giả đôi khi có cảm giác là lạ trên đỉnh đầu, như
thể có một loài côn trùng bò quanh đầu vậy, nhưng khi quý vị lấy tay sờ
đầu thì thấy không có gì lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là gì. Lúc
ấy, chính chư Phật trong mười phương đến xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ
thành tựu Phật quả trong tương lai. Nhưng vì quý vị chưa có được thiên
nhĩ thông nên không nghe được; vì chưa có được thiên nhãn thông nên quý
vị không thấy được. Tuy vậy, chư Phật trong mười phương thực sự đã rời
bổn độ du hành đến đạo tràng xoa đầu thọ ký cho quý vị. Thế nên nếu quý
vị có phước duyên gặp được, thì đây là một cảm ứng xuất phát từ công phu
hành trì của quý vị. Nhưng quí vị không được khởi tâm mê đắm, hay ngã
mạn mà nghĩ rằng: “À! Chư Phật vừa đến xoa đầu thọ ký hộ trì cho tôi”.
Nếu quý vị khởi niệm vui mừng hay hãnh diện vì điều này cũng đều là chấp
trước. Dù đây là triệu chứng tốt lành, mà khi quý vị đã khởi tâm đắm
chấp rồi, thì cũng trở nên xấu.
Trong chương cuối của Kinh Thủ Lăng
Nghiêm. Đức Phật trìh bày rất nhiều cảnh giới, tất cả đều là cảm ứng
xuất phát từ nỗ lực dụng công tu hành. Nhưng nếu hành giả nghĩ rằng mình
đã chứng được cảnh giới vi diệu, thì hành giả trở nên bị chấp trước và
liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền bị ma chướng. Do vậy, khi tu tập pháp
này, quý vị phải tự an trú trong trạng thái “như như bất động”. Cho dù
có gặp cảnh giới tốt hoặc xấu, cũng giữ tâm kôhng dao động. Khi tâm
không dao động, là quý vị có được định lực, trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí
tuệ chân chính, quý vị sẽ trở thành “trí giả” và “tác giả”.
48. Di đế rị dạ
Di đế rị dạ. Hán dịch là “ chánh lượng”.
Cũng dịch là “đại lượng”; nghĩa là số lượng rất nhiều, không đếm được.
Còn dịch là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng lớn, không có
ngằn mé. Tâm từ bi này bảo hộ che chở cho tất cả mọi loaì chúng sanh và
giúp cho họ được an vui, khiến cho chúng sanh thể nhập với bản tâm của
mình, thoát khỏi sợ hãi và tránh xa mọi tai ương.
Đây là Tích thượng thủ nhãn ấn pháp.
Trên đầu tích trượng có chín vòng tròn bằnh đồng. Lúc xưa, người xuất
gia đi đâu cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi đường, chín vòng kim
loại này sẽ tạo nên âm thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa
để khỏi bị dẫm đạp lên mình. Tích trượng là một loại pháp khí trong Phật
giáo. Bồ tát Địa Tạng thường dùng tích trượng như là chìa khóa để mở
cửa các địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập ấn pháp này phải nuôi dưỡng
lòng từ bi rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn thể mọi loài chúng
sanh.
49. Na ra cẩn trì
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền ái”
hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người
đứng đầu trong các bậc Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc khó tìm
cách bảo bọc, che chở cho chúng sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến
quả vị tối cao.
Đây là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp. Cũng
gọi là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế
gian, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh khổ. Bồ tát tu tập thành tựu
ấn pháp này sẽ có năng lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi quý vị
tu tập pháp ấn này thành tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng cứu giúp mọi
loài chúng sanh, giúp họ ngăn ngừa được mọi tai ương, chướng nạn. Nên
còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
50. Địa lỵ sắt ni na
Địa lỵ sắt ni na. Hán dịch là “Kiên
lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp. Trước
đây khi giảng về bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp
này có công năng hàng phục mọi loài ly, mỵ, võng lượng. Khi quý vị utu
tập thành tựu ấn pháp này rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, ly mỵ
vọng lượng đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp Bảo kiếm này
của hành giả. Ấn pháp này rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma ngoại đạo
nào không tuân phục ấn pháp, hành giả có thể trừng phạt ngay bằng Bảo
kiếm này.
51. Ba da ma na
Ba da ma na có ba ý: Thứ nhất là “danh
văn” nghĩa là tên của hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế
giới. Nghĩa thứ hai là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều vui mừng
khen ngợi công đức của hành giả. Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết
nghĩa thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh tiếng, mọi công hạnh đều được
thành tựu thật nghĩa và rốt ráo.
Đây là Bảo tiễn ấn pháp. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này thành tựu sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức.
52. Ta bà ha
Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ nhất là “thành tựu”. Khi trì
niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành
tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì tâm chưa
đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên
cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút
tâm niệm không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu.
Nghĩa thứ hai là “Cát tường”. Khi hành
giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt lành
như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng thành tín
hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì thế
nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải
có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn cha mình
được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tin. Trì tụng
chú này mới có cảm ứng.
Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình
chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú
này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng
có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này một cách
thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện
tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “viên tịch”.
Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc
nhập Niết bàn thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên tịch”
không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là để cầu sự
viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch” có nghĩa là “công vô bất
viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch” là
đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư Phật và
Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu
không suy lường được.
Nghĩa thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng
trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều
được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng nói bao giờ.
Ta bà hà có nghĩa là “vô trú”. Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang.
“Vô trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trú là không có một niệm chấp
trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi
việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi
vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô
trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi quý vị vừa móng khởi lên một niệm
tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu của Ta
bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu
quý vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng,
chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng
phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng
cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý
vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo
kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo
kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt, tôi sẽ dùng
kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng mảnh.
Tôi sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy
bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng phục.
Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải
chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng
tưởng trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn,
cho dù chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào
để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
53. Tất đà da
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà da
56. Ta bà ha
Chữ Tất đà da có năm nghĩa: Thứ nhất là
“Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba là “thành lợi”.Thứ
tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và thứ năm là “sở cung xưng tán”.
Thành tựu đốn kiết nghĩa là khi sử dụng
thần chú này, thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền tức khắc (đốn)
được an lành (kiết), toại nguyện.
Có người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú
Đại Bi, mà không được toại nguyện tức thì”? Vì sự trì niệm chú Đại Bi
đòi hỏi phải có sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu không có sự nỗ lực
hành trì tương ứng, thì sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng,
dung thông thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu.
Tất đà dạ còn có nghĩa là “thành biện”. Nghĩa là hành giả làm bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn.
Cũng gọi là “thành lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích.
Nhất thiết nghĩa thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu.
Sở cung xưng tán có nghĩa là mọi người đều đến khen ngợi, cung kính tán dương công đức của hành giả.
Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma ha
có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là hành giả đạt được mọi sự nghiệp
to lớn, thành tựu được công đức thù thắng và đạo nghiệp viên mãn. Trong
mọi việc, hành giả đều đạt được sự thành tựu viên mãn cao tột.
Cả hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà
ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp. Bảo Kinh là sự
quý giá vô ngàn của Kinh điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn
pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận. Trong tương lai, trí
tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ rất tinh anh. Nghĩa là có được khả năng
“bác văn cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ.
Ký ức của chúng ta thường hoạt động theo
một lối riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây gậy. Sau khi
đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ ràng hết được. Chỉ khi nào
cần cho sự học tập của mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay tra cứu
lại những ghi chép. Tại sao trí nhớ của mình lại quá kém. Vì quý vị chưa
từng hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp này. Nếu quý vị hành trì ấn
pháp này, quý vị sẽ đạt được sự hiểu biết thông tuệ và kiến thức rất đa
dạng. Giống như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa văn đệ nhất của đức Phật. Có
thể nói Ngài A Nan đã hành trì Bảo kinh ấn pháp mà chẳng nghi ngờ gì.
Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ vô lượng kiếp rồi, nên khi nghe được
điều gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài có thể nhớ được những điều
Ngài chưa từng nghe. Tại sao tôi nói như vậy? Vì Tôn giả A Nan ra đời
cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế nên hai mươi năm
trước, khi A Nan chưa xuất gia, thì những bài thuyết pháp của đức Phật
Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ
Kinh điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? Vì A Nan được nghe các vị
trưởng lão giảng lại những bài Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc
chính do đức Phật giảng lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định nên A
Nan thừa biết rõ nguyên nhân của sự nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo
kinh thủ nhãn ấn pháp thành tựu.
Có người hỏi tôi: “Làm thế nào để có
được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo kinh ấn
pháp. Những người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp này.
Ở trong đồ hình mạn đà la, đây là ấn
pháp Bồ tát phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm một tràng
phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những luồng hào quang sáng chói
biểu tượng cho sự khai mở trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng
kiến và công đức thành tựu viên mãn.
57. Tất đà du nghệ
58. Thất bà ra dạ
59. Ta bà ha
Tất đà. Hán dịch là “thành tựu lợi ích”.
Du nghệ. Hán dịch là “Vô vi” hay còn gọi là “hư không”.
Thất bàn ra dạ. Hán dịch là “Tự tại”.
Đây là Bảo hiếp thủ nhãn ấn pháp. Hành giả thành tựu ấn pháp này có thể
sử dụng lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu trong lòng đất để làm lợi
ích cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng ở nơi thể tánh mà thường
được tự tại và thành tựu vô lượng công đức.
60. Na ra cẩn trì
61. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “ái hộ” nghĩa
là thường nỗ lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu chú này cũng
mang ý nghĩa đại Từ Bi.
Đây là Bảo bình thủ nhãn ấn pháp.
62. Ma ra na ra
63. Ta bà ha
Ma ra. Hán dịch là “Như ý”
Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”.
Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp. Ấn
pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến
cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.
Quyến sách thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều
diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến
sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra,
các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể
nào chạy thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm
hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ
bình thường nhưng công năng thật khó lường.
Trong đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”.
64. Tất ra tăng a mục khư da
65. Ta bà ha
Tất ra tăng. Hán dịch là “thành tựu – ái hộ”. Nghĩa là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng sanh.
A mục khư da. Hán dịch là “bất không, bất xả”.
Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu.
Bất xả có nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu kệ:
“Chân như lý thượng bất lập nhất trần.
Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”.
Nghĩa là:
“Trên phương diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi.
Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”.
A mục khư da còn có nghĩa nữa là “ái chúng, hòa hợp”. Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng sanh.
Câu chú này còn có nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức thường vẫn tròn đầy.
Đây là Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp. Khi
hành trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể tránh được nạn tù tội,
bất kỳ nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị vướng phải các
chướng nạn về quan quyền nữa.
Quý vị sẽ hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?”
Không! Là Phật tử, quý vị không được
phạm pháp. Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật
pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý vị làm chuyện
phạm pháp, tất nhiên phải bị bắt và ở tù.
Tuy nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này.
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
67. Ta bà ha
Như quý vị đã biết, thế giới chúng ta
đang sống là thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”. Còn được
dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết, thiện đáo”.
Kham nhẫn có nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó có thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi giới Ta bà này.
Nhẫn ái có nghĩa là chúng sanh thế giới
Ta bà này không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn sanh khởi lòng
thương yêu mọi loài nữa.
Thiện thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn
luôn nói lời tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà. Cùng khuyến
khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta bà này.
Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo.
A tất đà dạ. Hán dịch là “vô lượng thành
tựu”. Nghĩa là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có công năng đưa
hành giả đến bờ bên kia một cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công đức.
Đây là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp. Khi quý
vị tu tập thành tựu ấn pháp này thì trong miệng hành giả thường có vị
ngọt của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý vị hãy chú ý điểm này,
trong khi hành trì ấn pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là
bắt đầu có sự cảm ứng. Khi thành tựu ấn pháp này rồi, khi quý vị có
trồng trọt các loại nông sản, ngũ cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể
phá hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại cây ăn quả như cam, đào,
hạnh, lê, … sẽ sinh trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác thường. Công
năng của Bồ đào ấn pháp này rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là
vô lượng vô biên.
Tất la tăng a mục khư da. Ở trong đồ
hình mạn đà la là hình ảnh biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ tát,
người đã dùng vô số phương tiện, dược liệu để chữa bệnh cho chúng sanh.
Ta bà ma ha a tất đã dạ ta bà ha là bổn
thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường dùng vô số phương thuốc để
chữa lành bệnh cho chúng sanh.
68. Giả kiết ra a tất đà dạ
69. Ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ. Hán dịch là
“Kim cang luân”. Còn gọi là Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có
hình tròn nhưng có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có
nghĩa là “Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí
và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói
“Chư Phật thường làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán,
chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn
học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ
cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả
thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng. Trong hàng
quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này
thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: :Ai cũng đều quá vô lễ
với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la
hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì
ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!”
Oán khí loại ma này thật ghê rợn.
Đây là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp. Với
Kim cang luân, hành giả có thể đập tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ
thần thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma nào, nó đều bị thu
phục và vâng lời khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp
này. Ma oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy phục
ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật, không dám xâm hủy”.
Kim cang luân ấn pháp không những chỉ có
công năng hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát ra âm
thanh chấn động. Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”.
Sấm sét vốn thường phát sinh từ trên
Trời, nhưng các Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng bàn
tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi. Tiếng sấm sét vang ra
khiến cho thiên ma bị chấn động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó bị
tan tành từng mảnh.
Khi giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có
nói về một người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này. Khi quý
vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm sét sẽ vang rền khi quý
vị sử dụng ấn pháp và tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả các
loài ma oán.
A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ thành
tựu”. Hành giả trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có
gì so sánh được, cho nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu phục
thiện.
70. Ba đà ma yết tất đà dạ
71. Ta bà ha
Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên hoa”.
Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện trắng”.
Hồng liên hoa này là siêu việt tất cả
mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng liên hoa
thủ nhãn ấn pháp này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở cõi Trời thì
ước nguyện ấy rất dễ thành tựu như ý.
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”.
Hiền là thánh hiền.
Thủ là giữ gìn, canh giữ hộ trì.
Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại.
Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà Bồ
tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ chúng sanh, giúp cho mọi loài
không còn sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi.
74. Ma bà lợi thắng yết ra da
75. Ta bà ha
Ma bà lợi thắng. Hán dịch là “Đại dõng”,
cũng dịch là “anh hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại anh hùng. Bồ
tát Quán Thế Âm cũng được gọi như thế.
Yết ra da. Hán dịch là “sinh tánh” hoặc
là “bổn tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng sanh vốn sẵn có đức
hạnh của bậc đại anh hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là do hành
trì Tổng nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp, ấn pháp này có công năng hàng
phục mọi loài ma oán không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên thế
giới.
Hành giả tu tập ấn pháp này nên biết đây
là ấn pháp quan trọng nhất trong tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Vì khi
hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai ấn pháp kia đều có đủ
trong ấn pháp này.
Quý vị có thể thắc mắc: “Thế thì tôi chỉ
cần hành trì một ấn pháp này thôi cũng đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi
mốt ấn pháp kia nữa”.
Nếu quý vị lười biếng thì cứ làm. Nếu
không phải là kẻ lười biếng, thì nên hành trì tất cả bốn mươi hai ấn
pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và thích tu tập để trở
thành một vị Bồ tát lười thì cứ tu tập ấn pháp cuối cùng này trong bốn
mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá nhiều thời gian mới thành tựu
được. Tuy nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên sẽ không được thành
tựu sớm là điều hiển nhiên. Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị
không muốn trở thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận tâm thời
gian lâu hay mau để tu tập các ấn pháp này.
76. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Câu này đã được giảng rõ ở phần đầu Kinh
văn rồi. Nhưng có trường hợp quý vị bị quên, nên tôi sẽ giảng lại lần
nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được rõ ràng, nghe lại lần này
sẽ được rõ thêm. Những người đã nhớ kỹ rồi, nghe được một lần này nữa
lại càng hiểu sâu hơn.
Nếu tôi giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi
ngay tức khắc, vì cách tôi giảng Kinh hoàn toàn khác với các Pháp sư.
Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải.
Nam mô có nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin uy y Tam bảo.
Hắc ra đát na có nghĩa là “bảo”: quý báu.
Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba
Toàn câu nghĩa là con nguyện quy y Tam
bảo. Con nguyện đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như những Phật tử
tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là quy y Tam bảo.
Quy y Tam bảo tức là quy y với toàn thể
chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không pháp giới.
Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương, cùng tận
hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với
tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng tận hư
không pháp giới.
Hư không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả
các cõi nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới,
trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của chúng
sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh
văn, Duyên giác.
Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Mười phương là: Bắc, Đông, Nam, Tây,
Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm phương trên và
phương dưới tất cả là mười.
Ba đời là quá khứ, hiện ại, vị lai.
Chúng ta quy y với Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba đời. Những
lời đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển được diễn đạt
qua mười hai phần Kinh văn (bộ Kinh). Tất cả Kinh điển do đức Phật nói
ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không chỉ hiện hữu và lưu hành trong
nhân gian mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp giới.
Khi nào quý vị có được ngũ nhãn, lục
thông rồi thì quý vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có nghĩa là quý
vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất kỳ lúc nào thích, quý
vị đều đọc được chân kinh mà không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói:
“Khi mê Pháp Hoa chuyển
Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”.
“Vô tự” không có nghĩa là Kinh không có
chữ. Mà chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy nhiên, khi quý
vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có thể thấy được chư Phật đang tụng
Kinh. Một số vị đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh Thủ
Lăng Nghiêm và một số vị khác đang tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều
đang tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Chư Phật luôn
luôn hành trì các thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được hiện hữu
và lưu truyền suốt khắp tận hư không pháp giới.
Chúng ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba
đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh
Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng.
Đá ra dạ có nghĩa là “tam”: ba. Chúng ta quy y với Tam Bảo trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư không pháp giới.
Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo.
77. Nam mô a lị da
Nam mô. Hán dịch là “quy y”.
A lị da. Hán dịch là “Thánh giả”, cũng có nghĩa là “Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy y với tất cả các Hiền Thánh Tăng.
78. Bà lô kiết đế
Bà lô kiết đế. Hán dịch là “quán”.
79. Thước bàn ra da
Thước bàn ra da. Hán dịch là “tự tại”. Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có nghĩa là Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.
80. Ta bà ha
Bồ tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta bà ha có nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên.
81. Án tất điện đô
Nay phần kinh văn của thần chú đã được
tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn
dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn sinh
nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là đạo
tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi
kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần.
Trong phạm vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên
tịnh, tất cả mọi công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như
ý.
Chẳng hạn như khi tôi đã kiết giới đạo
tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì trong toàn
bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác. Vì các
vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được
thành tựu.
Phạm vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm
sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của
hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới, và vô lượng vi
trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một
vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần
tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết
giới.
82. Mạn đà ra
Mạn đà ra. Hán dịch là “đạo tràng”, cũng
dịch là “Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành giả nhất định phải
thành tựu. Pháp hội của hành giả nhất định phải thành tựu.
83. Bạt đà da
Bạt đà da dịch là “Toại tâm viên mãn”.
Chẳng hạn như khi tôi muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không hoại.
Nếu tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì các vi trần ấy sẽ
kết hợp lại với nhau. Khi tôi niệm Án, tất điện đô mạn đà ra bạt đà da
ta bà ha với tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San Francisco
(Cựu Kim Sơn), hoặc nếu có nạn động đất lớn thì nạn ấy biến thành nhỏ,
nạn nhỏ thì biến thành không có. Nhờ vậy nên không có nạn động đất,
không có ai sợ hãi. Thế nên gọi là sự thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà
đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu quý vị có niềm tin chí thành,
thì thấy rất là màu nhiệm. Còn nếu quý vị không tin, là vì quý vị chẳng
thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên.
84. Ta bà ha
Ta bà ha dịch là “thành tựu”. Thành tựu
điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm
nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án tất điện đô mạn đà ra
bạt đà da ta bà ha.
Những vị khi làm lễ thế phát xuất gia
cũng trì niệm câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia tu học
Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn.
Đến đây thì Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và
chú Đại Bi đã được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết bốn mươi
hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni. Còn
phần sau nữa là khoa nghi hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi
không nhắc lại nữa.
Năm trước, một số đệ tử có tâm nguyện
được nghe giảng chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần một năm. Pháp
hội này được xem như thành tựu viên mãn.
Tôi nguyện rằng quý vị có phát tâm hành
trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà da ta bà ha, tức là
thành tựu viên mãn tâm nguyện của mình. Mỗi người có sự phát nguyện khác
nhau, nên sự thành tựu cũng không đồng, nhưng đều viên mãn cả.
Nguyện cho tất cả Phật tử có duyên được
nghe Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả vị Phật, vì đây
là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật.
Một khi quý vị đã chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi.
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa