Nó là vô minh, sự không
biết về bản tính chân thực của chúng ta và bản tính chân thực của thế
giới, và nó đưa đến sự mắc bẫy vào những vọng tưởng của tâm thức nhị
nguyên.
Nhị nguyên nói lên những đa cực và những lưỡng phân. Nó phân chia sự
thống nhất không vết nối của kinh nghiệm thành đây và kia, đúng và sai,
anh và tôi. Căn cứ trên những phân biệt ý niệm này, chúng ta phát triển
những yêu chuộng biểu lộ ra như bám lấy và ghét bỏ, những phản ứng thói
quen, những cái này lập nên hầu hết cái mà chúng ta đồng hoá như là
chính chúng ta. Chúng ta muốn cái này không muốn cái kia; tin điều này,
không tin điều kia; kính trọng điều này hay khinh bỉ điều nọ. Chúng ta
muốn lạc thú, tiện nghi, sức khoẻ và danh tiếng, và cố gắng trốn tránh
khổ đau, nghèo nàn, nhục nhã và không tiện nghi. Chúng ta muốn những
điều ấy cho chính chúng ta, và chẳng để ý gì những người khác. Chúng ta
muốn một kinh nghiệm khác với cái chúng ta đã có, hay chúng ta muốn bám
vào một kinh nghiệm và tránh những thay đổi không thể tránh sẽ đưa đến
sự hoại diệt kinh nghiệm này.
Có một loại vô minh thứ hai là do bị văn hoá quy định. Nó tạo thành
từ những tham muốn và ghét bỏ được cơ cấu hoá trong một nền văn hóa và
được làm thành điều luật trong những hệ thống giá trị. Chẳng hạn, ở Ấn
Độ, người Ấn giáo tin rằng ăn thịt bò là sai và thích hợp hơn là ăn thịt
heo. Người Hồi giáo tin rằng thích hợp hơn là ăn thịt bò nhưng họ bị
cấm ăn thịt heo. Người Tây tạng thì ăn cả hai. Ai đúng? Người Ấn giáo
nghĩ rằng những người Ấn giáo là đúng, người Hồi giáo nghĩ những người
Hồi giáo là đúng, và người Tây tạng nghĩ những người Tây tạng đúng.
Những niềm tin khác nhau khởi từ những thiên chấp và lòng tin là thành
phần của văn hoá – không phải từ trí tuệ căn bản.
Một thí dụ khác có thể được tìm thấy trong những xung đột nội tại của
triết học. Có nhiều hệ thống triết lý được định nghĩa bởi sự bất đồng ý
với một hệ thống khác trên những điểm tinh tế. Dù cho bản thân hệ thống
được phát triển với ý định dẫn đưa người ta đến trí tuệ, chúng sản sinh
ra vô minh bởi vì những người theo chúng bám chấp vào một cái hiểu nhị
nguyên về thực tại. Điều này không thể tránh trong một hệ thống ý niệm
bởi vì tâm thức ý niệm tự nó đã là một biểu lộ của vô minh.
Vô minh văn hoá được phát triển và bảo tồn trong những truyền thống.
Nó thấm khắp mọi phong tục, ý kiến, hệ thống giá trị và toàn bộ tri
thức. Cả hai bên, những cá nhân và những văn hoá chấp nhận những yêu
chuộng này một cách căn bản đến độ chúng được xem là lương tri chung hay
định luật thiêng liêng. Càng lớn lên, chúng ta càng bám luyến vào những
niềm tin khác nhau, vào một đảng phái chính trị, một hệ thống y khoa,
một tôn giáo, một quan niệm sự vật là thế nào. Chúng ta qua trường sơ
cấp, trung học, và có thể đại học và trong một nghĩa mỗi bằng cấp là một
phần thưởng cho việc phát triển một vô minh nguỵ biện hơn nữa. Giáo dục
tăng cường thêm thói quen nhìn thế giới qua một thấu kính nào đó. Chúng
ta có trở nên một chuyên gia trong một quan kiến sai lầm, trở nên rất
chính xác trong cách hiểu của chúng ta, và tuỳ thuộc vào những chuyên
gia khác. Điều này cũng có thể là trường hợp trong triết học, khi người
ta học những hệ thống trí thức chi tiết và phát triển tâm thức thành một
dụng cụ tra vấn sắc bén. Nhưng cho đến khi nào vô minh bẩm sinh được
thâm nhập, người ta chỉ phát triển một thiên chấp được huân tập, chứ
chẳng phải trí tuệ căn bản.
Chúng ta trở nên bám luyến vào thậm chí những cái nhỏ nhất: một loại
xà phòng riệng biệt hay một kiểu tóc cắt theo lối nào đó. Trên một phạm
vi rộng lớn, chúng ta phát triển những tôn giáo, những hệ thống chính
trị, những triết học, tâm lý học và những khoa học. Nhưng không có ai
được sinh ra với niềm tin rằng ăn thịt bò hay thịt heo là sai hay một hệ
thống triết lý là đúng và cái khác là sai hay tôn giáo này là đúng tôn
giáo kia là sai. Những điều này phải được học. Sự trung thành ủng hộ
những giá trị riêng biệt là kết quả của vô minh văn hoá, nhưng xu hướng
chấp nhận những quan kiến giới hạn phát sinh trong sự nhi nguyên, nó là
biểu lộ của vô minh bẩm sinh.
Điều này không xấu. Nó phải là như vậy. Những bám chấp của chúng ta
có thể dẫn đến chiến tranh nhưng chúng cũng biểu hiện như là những kỹ
thuật ích lợi và những nghệ thuật khác nhau có lợi lớn lao cho thế giới.
Bao giờ chúng ta chưa giác ngộ, chúng ta còn tham gia vào nhị nguyên,
và điều đó cũng tốt. Ở Tây tạng có câu nói, “Khi ở trong thân của một
con lừa, hãy thưởng thức vị của cỏ”. Nói cách khác, chúng nên cảm kích
và hân thưởng cuộc đời này bởi vì nó tràn đầy ý nghĩa và có giá trị tự
thân, và bởi vì đó là cuộc đời chúng ta đang sống.
Nếu chúng ta không cẩn thận, những giáo lý có thể được dùng để hỗ trợ
cho vô minh của chúng ta. Người ta có thể nói rằng người nào đắc được
một cấp độ cao cấp là xấu hay có chế độ ăn uống kiêng cữ là sai lầm,
nhưng đó không phải là điểm cốt yếu chút nào. Hay người ta có thể nói vô
minh là xấu hay đời sống bình thường chỉ là sự ngu ngốc sinh tử. Nhưng
vô minh chỉ là sự che ám tâm thức. Tham luyến vào nó hay ghê tởm nó cũng
là trò chơi cũ kỹ của nhị nguyên, diễn bày trong lĩnh vực của vô minh.
Chúng ta có thể thấy nó phổ biến như thế nào. Dù cho những giáo lý phải
làm việc với nhị nguyên – chẳng hạn bằng cách khuyến khích sự gắn bó với
cái thiện và ghét bỏ cái bất thiện – một cách nghịch lý chúng dùng nhị
nguyên của vô minh để đáng bại vô minh. Cái hiểu biết của chúng ta phải
vi tế biết bao nhiêu và chúng ta có thể dễ dàng lạc mất biết bao nhiêu!
Đây là tại sao thực hành là cần thiết, để có kinh nghiệm trực tiếp hơn
là chỉ phát triển hệ thống ý niệm khác để thi thiết và bảo vệ. Khi những
sự vật được nhìn từ một viễn cảnh cao hơn, chúng là bình đẳng. Từ viễn
cảnh của trí tuệ bất nhị, không có gì là quan trọng hay không quan
trọng.
WANGYAL RINPOCHE TENZIN
Đương Đạo
dịch từ The Tibetan Yogas fo Dream and Sleep.
NXB Snow Lion Ithaca, New york, 1998
VHPG số 61