Chùa Bửu Minh

Nhờ thấm nhuần tư tưởng triết lý Phật giáo mà đa số các tác giả thơ Thiền đều có chung quan niệm về con người, về sự hiện hữu – sinh diệt của đời người. Thân người được cấu thành và tồn tại bởi nhờ tứ đại và ngũ uẩn, nó duyên sinh, vô ngã.



HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI THÂM NGỘ TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO

QUA MỘT SỐ BÀI THƠ THIỀN LÝ - TRẦN

HOÀNG TRỌNG TÂM

Có người cho rằng: “Ở đâu có Thơ là ở đó có Đạo và ngược lại”. Thơ và Đạo có duyên với nhau, có lẽ từ thuở “nhật nguyệt chưa phân chung thuỷ”. Thơ và Đạo hỗ tương phát triển, tạo nên những nét đẹp kỳ thú mà nhẹ nhàng thanh thoát, góp phần cải tạo nhân tâm, xây dựng xã hội, tạo đà phát triển sơn hà xã tắc. Điều đó được thể hiện thật sự rõ nét qua hai triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam: Thời đại Lý – Trần.

Lý – Trần là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử quốc gia phong kiến tự chủ Đại Việt với những chiến công hiển hách chống ngoại xâm bảo vệ non sông gấm vóc. Đây là thời kỳ có nhiều thành tựu nhất về cả chính trị, xã hội, văn hoá, kinh tế.

Giai đoạn này đã xuất hiện dòng văn học viết đầu tiên, mở đầu cho dòng văn học viết Việt Nam: văn học Lý – Trần. Đây là “giai đoạn văn học rất bề thế, tầm cỡ, phần nào tương ứng và tiêu biểu cho một thời đại thịnh trị huy hoàng của dân tộc[1]. Không những thế, hình ảnh về con người, thiên nhiên, sông núi trong thơ văn giai đoạn này như những bức tranh sống động. Vừa mang tính dân tộc sâu sắc vừa chứa đựng tinh thần tôn giáo đậm đà . Trong đó, thơ Thiền là thể loại văn học nổi trội, cả về số lượng lẫn nội dung. Thơ Thiền thời Lý không những thể hiện sự sinh động trong đời sống tâm linh mà còn khắc hoạ thật sâu sắc hình tượng con người, thiên nhiên, ... và tất cả. Những rung cảm, những khoảnh khắc dao động trong tâm hồn của các nhà sư – thi sĩ trước cuộc sống đều rất nhạy bén và đầy xúc cảm. Nhẹ nhàng, thanh thoát và những cảm nhận rất đỗi tinh tế, các thi sĩ đã thể hiện sự thẩm thấu, thấm nhuần tư tưởng và thâm ngộ triết lý đạo Phật.

Lực lượng sáng tác trong thời kỳ này chủ yếu là các Thiền sư, nếu không muốn nói là tất cả. Một phần nhỏ nho sĩ bấy giờ có sáng tác chút ít thì cũng lại ảnh hưởng Phật giáo khá nặng. Hai tác giả đời Lý mà ta còn được biết là Đoàn Văn Khâm, Thượng Thư bộ công và Mai Công Bật, Viên ngoại lang bộ Binh cũng đều chan chứa mùi Thiền[2]. Điều đó cho thấy Phật giáo và văn chương thời Lý gắn chặt với nhau không thể tách rời, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc.

Phật giáo thời Lý cũng giúp những nhà cầm quyền có lòng vị tha, độ lượng khoan dung, thương dân như con đỏ, đó chính là kết quả mà giáo lý Phật đà hun đúc nên. Sử gia Hoàng Xuân Hãn cũng rất khách quan khi nhận định rằng: “Sau các đời Vua hung hãn Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện những kẻ cầm quyền có độ lượng khoan hồng, những người giúp việc ít tham lam, phản bạn. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là nhờ ảnh hưởng của đạo Phật”.[3]

Tư tưởng, triết lý Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần và khả năng tư duy của con người thời này. Con người là yếu tố đầu tiên và hình ảnh chủ đạo trong thơ ca, không chỉ thời Lý, thể hiện hình ảnh con người thế nào chính là quan niệm của tác giả. Trong thơ Thiền, hình tượng con người được khám phá đầy bất ngờ và thú vị qua những bức tranh về cuộc sống, một mặt hồ phẳng lặng, một tiếng chuông chùa ngân vọng sớm hôm, một cảnh làng quê thanh bình với tiếng chim lảnh lót và ong bướm chập chờn, một câu nói hóm hỉnh khôi hài, ... Khung cảnh đầy thi vị!

Tánh không, phá chấp, vô ý, vô ngôn ... là tinh thần chủ đạo trong thơ Thiền đời Lý. Con người thời Lý không những thể hiện được sự thao thức sống và sống có ích, lợi lạc cho tha nhân mà còn chứng tỏ được quan điểm, lập trường và khẳng định hướng đi của mình là tiến bộ, đúng đắn và tích cực.

I. Bối cảnh xã hội:

1.Lịch sử dân tộc:

Vào những năm cuối thế kỷ XI, vua Lê Long Đỉnh (Lê Ngoạ Triều) bạo ngược ngu muội, đã chết sau 4 năm trị vì. Lúc bấy giờ tình hình đất nước hết sức nguy ngập, ngoại xâm nội chiến vô cùng rối ren. Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Đa Bảo và mưu sĩ Đào Cam Mộc cùng quần thần đã ra tay xoay chuyển tình thế, đưa Lý Công Uẩn lên ngôi lấy hiệu là Lý Thái Tổ, xây dựng nên một triều đại thái bình, huy hoàng chưa từng có trong lịch sử phong kiến. “Triều đại nhà Lý không những là một triều đại oanh liệt nhất trong lịch sử Việt Nam về chiến công, về chính trị vương đạo, về nghệ thuật, văn hoá nói chung, mà còn là triều đại ý thức dân tộc sáng tỏ mạnh mẽ nhất nữa. Trước sau có tám ông vua kế nghiệp lâu dài hai trăm năm mà không có ông vua nào thất đức, đều là vua hiền cả”[4].

2.Văn học Phật giáo:

Như chúng ta đã biết, vào thời Lý, Phật giáo phát triển đến cực thịnh và được tôn làm quốc giáo. Đây chính là nền tảng cho văn học phát triển. Điểm nổi bật nhất của văn học giai đoạn này là ý thức tự hào dân tộc, ý chí quật cường và khẳng định chủ quyền đất nước. Tất cả đều mang đậm sắc thái của Thiền tông Phật giáo, với những tư tưởng, triết lý về con người và vũ trụ. Qua thơ văn, chúng ta dễ dàng nhận ra con người thời kỳ này có một cách nhìn hoàn toàn mới về cuộc đời, một lối sống với đầy đủ chất liệu mang đậm tính nhân văn. Phật giáo đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng con người và xã hội với đời sống lành mạnh. Và hơn thế nữa, “nhà chùa thời này không quay lưng với cuộc đời, không thoát ly hiện thực mà tham gia đắc lực vào những hoạt động xã hội. Nhiều nhà Sư là chỗ dựa cho nhà vua. Họ có vai trò quan trọng trong triều đình và sáng tác của họ cũng ít tính chất vô hư, thơ văn của họ thường hồn nhiên, sôi nổi, lạc quan yêu đời, ngay cả những trang chữ họ thuyết giảng giáo lý nhà Phật[5].

Nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này là những kho tàng quý giá, tác phẩm của các Thiền sư đã mở ra một cách nhìn hoàn toàn mới mẽ, một lối sống đầy chất liệu nhân bản, đích thực, chính chất liệu này đã thấm nhuần vào dòng tâm thức của đông đảo quần chúng nhân dân.

Những tuyệt phẩm như Cáo Tật Thị Chúng (Mãn Giác), Ngư Nhàn (Dương Không Lộ), Thị Đệ Tử (Vạn Hạnh), ... đã gửi gắm những quan điểm triết học, nhân sinh quan và cái nhìn tinh tế, mỹ lệ về xã hội nói chung và con người đương đại nói riêng. Vũ trụ, vạn vật trong đó có con người vốn cùng một bản thể mà ra, mọi chúng sinh đều đầy đủ tính giác, sáng suốt, hồn nhiên. Họ đã khéo léo chuyển tải sự lạc quan, yêu đời, sống thong dong tự tại vào những trang thơ hồn nhiên trong sáng.

II. Định nghĩa Thiền, Thơ & thơ Thiền:

Thiền là gì? Thơ là gì mà dễ làm cho người ta bối rối đến thế khi phân tích, so sánh? Để trả lời nó, chúng ta không thể không tìm hiểu những mảng liên quan đến Thiền, Thơ và thơ Thiền.

1.  Thiền:

Đạo Phật xuất hiện ở đời chỉ vì mục đích duy nhất là “khai thị chúng sanh nhập Phật chi tri kiến”. Đích đến thì chỉ có một nhưng đường đi thì muôn vàn. Thiền đạo là một trong những con đường tắt, gần, rộng rãi và thoáng đạt. Thiền học là tinh hoa của giáo lý Phật đà, là đỉnh cao của triết học, là cảm hứng siêu thoát, là thông điệp của mùa xuân vĩnh cửu, là triết lý hành động giữa cõi vô thường, có – không, sanh - diệt.

Nói một cách bóng bẩy, Thiền là nghệ thuật sống, là tinh hoa của minh triết đông phương, là vầng trăng soi sáng giữa miền u tịch; đánh thức vô minh, vọng lầm để tao ngộ với quê hương sơ thỉ. Thiền thuộc về lãnh vực của tâm năng trực giác, là chỗ mà lý thuyết tuyệt lộ, là ngôn ngữ vô ngôn của cố quận thuở ý tưởng và khái niệm chưa sinh ra đời.

Nói tóm, Thiền là cách sống để được giải thoát! Thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, làm cho con chữ lấp lánh nhiều sắc màu, ý tưởng; lung linh đa chiều tư duy và cảm xúc. Thơ là sự suy tưởng của triết lý thất bật, là giấc mơ tại thế, là cánh chim ước vọng bay vào giấc mơ riêng tư cô đơn nhưng lại xa rộng khôn cùng. Thơ thuộc về những tế bào nhạy bén của con tim và khối óc. Đó là những cảm xúc dạt dào, rung cảm, những khoảng khắc dao động của tâm hồn.

2. Thơ Thiền:

Có người nói rằng Thơ rất gần với Thiền.

Thơ vi vút trong không gian thẩm mỹ ước lệ; Thiền thênh thang trong cõi tĩnh mặc, trong sáng và vô duy.

Thơ Thiền là các bài kệ, là thơ bao gồm cả kệ và thơ, nêu lên một triết lý, một quan niệm Thiền hay một bài học Thiền nào đó, hoặc vừa ảnh hưởng Thiền vừa mang rung động thi ca có tính trần thế. Thơ Thiền là thơ của các nhà sư và của cả những người không tu hành nhưng am hiểu, yêu thích triết lý Phật giáo, bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp triết lý, cảm xúc hay tâm lý Thiền.[6]

Thơ Thiền có thể chia làm hai loại:

 Một, thiên về triết lý (tán, tụng, ngộ, giải) chiếm khoảng 94%

 Hai, thiên về trữ tình, mang tư tưởng, cảm xúc Thiền chiếm khoảng 6%

Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh đã mạnh dạn chia thơ Thiền ra làm 3 loại: Một, các thể loại kệ tụng cổ, thuần tuý giáo lý tu hành thuộc phạm trù kinh và luận. Hai, những áng văn chương chỉ ảnh hưởng của Phật giáo, thoát khỏi kệ, mang những rung động của thi ca, nó đứng giữa Thơ và Kệ. Ba, những tác phẩm có thuật ngữ Phật giáo song không mang nội hàm giáo nghĩa Phật giáo.

Vì thế, thơ Thiền nhìn chung bao hàm một nghĩa tương đối rộng, có tính chất mở. Nếu muốn phân biệt rõ ràng giữa thơ Thiền và thơ mang tính Thiền hay thơ dùng thuật ngữ Phật giáo thì cần phải đi sâu tìm hiểu và phân tích kỹ để có cái nhìn đúng đắn hơn.

III. Sự dung hợp giữa thơ và Thiền:

Thơ và Thiền không chung dòng, chung nhánh mà còn có vẻ như xa lạ với nhau, có sự khác biệt giữa giấc mộng miên man, đa sự và ngôn ngữ tỉnh thức, giác ngộ. Thiền thuộc phạm trù tôn giáo, thơ thuộc mảng văn học trữ tình. Mục đích của Thiền là chứng ngộ Chân như Pháp tánh, trong khi đó thơ là để bày tỏ tình cảm con người, những ưu tư khắc khoải. Thơ là sản phẩm của thời cuộc, phản ánh nhiều mặt của cuộc sống. Trong khi đó Thiền là cuộc sống, là suối nguồn tuôn trào những dòng sinh lực nuôi dưỡng cuộc đời. Do đó, sắc thái nổi trội của Thiền là dung hoà, tuỳ thuận mà không phê bình chống đối, kén chọn như thơ.

Tuy nhiên, dòng tâm thức của con người làm thơ, mới – cũ, xưa – nay có sự tương giao, có cùng tư tưởng là lý Thiền. Cuộc đời không phẳng lì như chiếc gương soi mà nhiều mặt, lắm quan điểm, quanh co khúc khuỷu. Thơ đến với đời để chỉ cho người ta thấy cái đẹp, thi vị của cuộc đời. Thơ cảm thông, yêu thương đời nhưng vì thiếu sự hiểu biết về đời nên đôi lúc đồng nghĩa với thương hại. Bởi thế, Thiền bổ sung vào điểm thiếu sót đó của thơ. Thiền khách quan, trung thực, thấy cuộc đời mong manh như bóng nước, và vẻ đẹp đích thực của Thiền là ở đây.

Thơ cũng như cung đàn, có nhiều tầng bậc và âm vực khác nhau, tuỳ theo sự đánh giá của mỗi người. Thiền cũng vậy. Thiền và Thơ gặp nhau ở cung bậc cao nhất của chúng. Cũng có thể có người cho rằng, cung bậc của thơ thấp hơn của Thiền ở một mức độ nhất định nào đó. Thơ có thể thua kém Thiền ở mức độ nhạy bén, khách quan, song nếu đó là một bài thơ hay xuất hiện trong một phút giây ngất ngây thì tư duy không cần phải gọt giũa, chọn lựa.

Thiền & Thơ tồn tại và bằng lòng dung hợp, bổ trợ cho nhau. Thơ không tuyên bố vị nghệ thuật, Thiền không tuyên bố vị nhân sinh. Chúng quên tự thân, chỉ có cái đẹp là tồn tại mãi mãi và đây là lẽ sống của cuộc đời.

IV. Triết lý Phật giáo là gì?

1. Triết lý Duyên khởi duyên sinh:

Theo Phật giáo, vạn vật duyên khởi duyên sinh, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không và ngược lại, không có một vật nào riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải nương vào nhau mới thành vật này hay vật khác, đó là duyên sinh hay trùng trùng duyên khởi.

Chư pháp tùng duyên sanh

Diệc tùng nhân duyên diệt

Tôn giả đại trí Xá Lợi Phất cũng nhờ nghe được chân lý này mà ngộ đạo. Không những thế, chư Phật ba đời cũng chứng quả Vô thượng bằng định luật này.

Khi con người thâm ngộ định luật này thì đồng thời họ cũng nhận thức được rằng thân mạng con người nói riêng và vạn hữu nói chung là vô ngã. Các pháp hữu vi từ duyên mà sanh ra thì khi hết duyên, thiếu duyên cũng đồng nghĩa với sự huỷ hoại.

2. Triết lý Vô ngã:

Con người tồn tại được là nhờ kết hợp từ nhiều yếu tố thế nên nó vốn không có cái ngã thường hằng, không có “ngã” thì “ngã sở” cũng trống không. Đạo Phật đứng giữa cuộc đời nhìn lại tự tánh của mỗi chúng sanh để đi đến cái Chân như bất tận. Nghĩa là thấy đúng như thật là sự thật, thấy tất cả pháp đều do duyên sinh, không có gì chắc thật. Người và mình, cả hai đều “không”. Đạo Phật với tinh hoa là Thiền học có cái nhìn thực tại tối hậu, nhấn mạnh về tính cách vô ngã của con người. Phật giáo nói chung và Thiền tông nói riêng có chủ trương phá bỏ kiến chấp (ngã chấp và pháp chấp) vạn vật là thường của chúng sanh.

Vô ngã là bản chất của vạn vật, là chân lý muôn thuở của cuộc đời.

3. Triết lý Vô thường:

Vô thường là định luật chi phối tất cả sự vật.

Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đã là biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vạn vật hiện hữu quanh ta luôn thay đổi, biến chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Định luật vô thường tồn tại theo một quy luật gồm bốn yếu tố: thành, trụ, hoại, không. Sinh ra, lớn lên, suy yếu và cuối cùng là tan rã. Tất cả sự vật trong vũ trụ từ hạt bụi mảy may nhỏ bé đến những hành tinh lớn trong ngân hà vũ trụ đều phải tuân theo bốn giai đoạn ấy cả, thế nên gọi đó là vô thường.

Vô thường có 3: Thân vô thường, Tâm vô thường, Hoàn cảnh vô thường.

Vô thường của đạo Phật không bi quan yếm thế, không gieo rắc vào lòng người những quan niệm chán đời thối chí. Mà đây chính là sự thật về cuộc đời. Đạo Phật nói vô thường vì muốn chỉ rõ mặt trái của cuộc đời, bài trừ những mê lầm và ngăn chặn con người không chạy theo vật dục. Nếu hiểu được lý vô thường thì chúng ta sẽ có một phương thuốc thần diệu để đối trị căn bệnh tham ái, mê mờ.

Mặt khác, đạo Phật nói vô thường để đả phá cái chấp thường còn của thế gian. Đến khi chúng sanh ngộ được lẽ vô thường thì đó chính là lẽ chơn thường bất biến.

V. Hình tượng con người thâm ngộ triết lý Phật giáo qua thơ Thiền thời Lý:

1. Con người vật chất:

Con người được xem là động vật bậc cao, có tư duy, có ngôn ngữ, cũng được xem là tối linh trong vạn loại.

Con người nói chung đều mong muốn bản thân mình trẻ mãi không già, luôn vui vẻ hạnh phúc mà không hề chờ đợi đau khổ muộn phiền. Làm sao để không già, không bệnh, không khổ và không chết? Những mong ước như thế cứ canh cánh bên lòng khiến con người giữa trần ai mãi hoài đi tìm lời giải đáp. Người ta cứ ước vọng xa xôi mà không quay trở về với tự tánh chân tâm, không tự bằng lòng với những gì đang có, không tìm được “an lạc trong hiện tại”. Ngày ngày rong ruổi giữa giòng đời biến động, đêm đêm vọng tưởng trong giấc mộng miên man.

Con người sống giữa cuộc đời với những cảnh ngộ khác nhau. Kẻ giàu người hèn, kẻ buồn người vui. Chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh một bác nông phu với con trâu già lầm lũi từng bước cày giữa ruộng đồng, một bà lão với chiếc nón rách tả tơi ngửa đôi bàn tay gân guốc xin bát cơm lót dạ. Cũng không khó để tìm ra một kẻ vung tiền nhậu nhẹt rượu chè, ăn chơi trác táng. Cũng có những kẻ đấu tranh trên thương trường, mong chiếm được phần hơn, dùng tất cả âm mưu và thủ đoạn để triệt hạ đối phương, hòng tranh danh lợi. Tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo, thoả mãn bản thân. Nhưng nào ngờ, đó cũng chính là giềng mối đưa đến cái hoạ cho mai hậu.

Khác với thế tục phàm nhân, bậc thâm ngộ giáo lý Phật đà mặc nhiên trong sương gió. Ngày ngày luận đàm diệu nghĩa tánh chơn; đêm đêm tĩnh toạ nhàn du Thiền định. Sắc – tài chẳng khác giấc chiêm bao; danh – lợi như là cơn gió thoảng. Thân thanh thản, an nhàn, không quái ngại; Tâm tự tại bất biến với tuỳ duyên. Các vị Thiền sư – thi sĩ đã mở rộng lòng mình, hoà quyện với thiên nhiên, tham gia cùng thế cuộc. Luôn sống thức tỉnh và không hãi sợ trước những nghịch cảnh của cuộc đời.

Sống, chiến đấu để bảo vệ non sông. Sống, cứu giúp những mảnh đời ngang trái. Dù ở trạng thái nào thì con người cứ vẫn phải sống. Tuy nhiên sống như thế nào mới không uổng phí đời người mới là điều đáng quan tâm. Mối quan tâm chung của con người là “Cơm, áo, gạo, tiền”, làm sao để có được hạnh phúc, ...? Nỗi lo đó được giải đáp một cách triệt để khi con người bắt gặp được giáo nghĩa Phật đà. Từ đó, tạo tiền đề cho việc phát triển nhân tâm, xây dựng một xã hội thanh bình, an lạc.

2. Con người tinh thần:

a) Tinh thần vô uý:

Nhờ thấm nhuần tư tưởng triết lý Phật giáo mà đa số các tác giả thơ Thiền đều có chung quan niệm về con người, về sự hiện hữu – sinh diệt của đời người. Thân người được cấu thành và tồn tại bởi nhờ tứ đại và ngũ uẩn, nó duyên sinh, vô ngã. Sự biến đổi vô thường là bản chất của cuộc sống con người với đầy đủ các giai đoạn sống, từ tuổi bập bẹ thuở ấu thơ, trưởng thành rồi già yếu và chết đi để tiếp tục một cuộc đời mới, một kiếp sống mới. Chẳng thế mà có người cho rằng, thân con người ta sống ở đời và chết đi trong đời cũng như chiếc áo, cũ tất phải thay, không có gì phải hoang mang, sợ hãi.

Điều này đã được các Thiền sư nhắc đến như một lời cảnh giác đối với những người đang sống trong giòng đời biến diệt. Thiền sư Vạn Hạnh, đã dạy đệ tử mà chẳng khác nào một lời tâm sự:

身如電影有還無

萬木春榮秋又枯

任運盛衰無怖畏

盛衰如露草頭鋪

Âm:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thạnh suy vô bố uý

Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dịch:

“Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi thu não nùng

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”

(Vạn Hạnh – 218)[7]

Thân người được Thiền sư ví với những hình ảnh mong manh, dễ đổi thay như ánh chớp trong chiều tà hoang phế, như giọt sương long lanh trên đầu ngọn cỏ buổi sớm mai. Bốn mùa tám tiết, vạn vật biến chuyển không ngừng, xuân qua hoa lá xanh tươi tốt, thu đến lá hoa cũng rụng rời.

Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi thu não nùng

Vạn Hạnh Thiền sư đã bảo hoà được cái vẻ đẹp của cuộc sống thể nhập. Thân ngũ uẩn giả hợp, như sương mai, như ánh chớp, có đấy rồi không đấy, rất vô thường. Thêm nữa, Thiền sư nhắc đến cái vòng tuần hoàn của thế gian, xuân vinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn. Tuy bề ngoài có lúc tươi, lúc héo, lúc xuống, lúc lên như sóng nước vô hạn tràn đầy vũ trụ. Đây là tư tưởng lạc quan yêu đời thể hiện tinh thần vô uý và tin vào nhịp điệu vận hành biến động liên tục nên không lo sợ sự biến đổi lên xuống của cuộc đời.

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

Việc gì phải sợ hãi? Người tỉnh thức là người biết mình đang sống giữa cuộc đời biến chuyển, biết rằng mình ngày một già đi theo năm tháng thời gian. Không chấp trước vào đâu nên thông suốt, vô niệm, quân bình, thông hiểu cuộc đời này tuy có thăng trầm nhưng nhờ có nó mà vẻ đẹp cuộc sống có giá trị cao hơn cả. Biết được như vậy là nhờ hiểu đạo Phật, con người thời Lý không hề sợ hãi khi phải đối mặt với sanh – tử, hợp – tan. Từ đó, giúp họ có một lối sống tích cực, mạnh mẽ, cứng rắn, góp phần xây dựng quốc gia giàu đẹp. Con người hiện hữu hôm nay và biết rằng ta sống cho hôm nay, không màng đến quá khứ, tương lai mà ảo vọng đảo điên. Thu đến, xuân đi âu cũng là lẽ thường của tự nhiên.

Biết thời gian của hôm nay

Xuân xưa thu cũ ai hay biết gì

(Thiền Lão – 27)

Một cái nhìn thầm lặng nhưng hùng tráng, đơn sơ mà trác tuyệt của các vị Thiền sư, các tác giả thâm ngộ triết lý đạo Phật. Đó không những thỉnh thoảng xuất thần trong vài phút mà đã xuất thần hàng ngày, hàng tháng, hàng năm. Không những đã thoát mình ra khỏi tù túng của thế giới hiện tượng mà còn nhập được với cái toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của muôn thuở. Họ không lý luận để nhìn thấy lẽ vô thường của cuộc đời mà đã nhìn thấy như thật, rõ ràng nhưng một cọng một là hai. Từ đó, họ sống một cuộc sống tự tại.

Thân như tường vách đã lung lay

Lật đật người đời những xót thay

(Viên Chiếu – 44)

Đúng vậy, thân con người khác nào bóng nước, cũng tợ sương mai, nó mỏng manh và lung lay yếu đuối, tựa hồ như muốn sụp đổ bất cứ lúc nào. Thế mà ai hay? Ai biết? Chỉ có những người thâm ngộ giáo lý Phật đà mới có thể vô bố uý trước sự quay cuồng điên loạn của cuộc đời. Tác giả cảm thấy đau xót cho những kẻ quên đi sự thật vô thường của bản thân để rồi sống quờ quạng, bon chen, dật dờ trong màn sương mờ ảo của nghiệp báo luân hồi. Thật đáng thương! Đáng thương cho những người chưa một lần đánh động ý thức để thấy rõ hơn cái thân mình đang sở hữu. Có gì phải sợ hãi, đau khổ khi “Thân là nguồn sinh diệt”? Có đó, rồi mất đó.

Vốn từ không tịch, ảo thân sinh

Như ở trong gương hiện bóng hình

Hình bóng vẫn rằng “không” hết thảy

Ảo thân, tướng thật, chứng rành rành”

(Kiều Bản Tịnh – 104)

Ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Có phải chăng từ chỗ trống không lặng lẽ mà sinh ra? Và cuối cùng sẽ trở về với cảnh giới tịch mặc đó? Nhưng, có gì phải nghi vấn, truy tìm nguồn gốc để rồi phải đớn đau, sầu khổ. Hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp ước lệ của thiên nhiên để thấy được lẽ mầu nhiệm của thực tại. Ngoài kia, một giọt sương lấp lánh trong ánh bình minh của buổi ban mai, trong vắt như hạt minh châu đang ngự trị lung linh trên ngọn cỏ non xanh mướt.

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông

Thật tuyệt vời!

Thạnh suy, suy thạnh của cuộc đời diễn ra như tuồng huyễn hoá. Con người sống vật vờ trong sự xoay chuyển không ngừng của thời gian. Có có, không không, những phạm trù đối đãi khiến thế nhân ưu sầu miên viễn. Nhận thức được điều đó thì cảnh mây chiều phủ núi cao cũng là diệu cảnh.

“Ví người hiểu lẽ không phân biệt

Núi phủ mây chiều, cây cỏ tươi”

(Bảo Giám – 94)

Bài thơ nói lên thái độ sống của một người thông rõ pháp Phật và bất cứ ai hiểu đạo Phật cũng có cùng thái độ sống như rứa. Rất tích cực dấn bước vào giòng chảy vô thường của cuộc đời để độ sanh. Sống như vậy, như thiền sư Vạn Hạnh là hiểu đạo Phật và ngược lại, hiểu đạo Phật là sống như vậy: tỉnh táo trước vô thường để tích cực cứu thế mà không phải yếm thế.

b) Tinh thần phóng khoáng thảnh thơi, vô sự:

Không phân biệt ngã – nhân, bỉ – thử, sống phóng khoáng mà không phóng túng. Những áng thơ đời Lý thật bình dị nhưng đã toát lên được cái lý Như Thị chân tâm Phật tánh. Vì vô minh nên con người khởi lên vọng chấp tìm cầu đuổi bắt cái hình bóng “mờ mờ nhân ảnh”, chẳng khác nào “đang yên tự tìm nguy”, chỉ cần dừng lại vọng niệm thì “trăng gió làm gì được”. Tuy nhiên, không phải ai cũng ngộ được lý này.

Thiên nhiên là nguồn mạch sống của nhân loại, nó cũng không ngoại lệ đối với những người thâm ngộ giáo lý nhà Phật. Hình ảnh ông chài say sưa giấc nồng, quá trưa tỉnh dậy thấy đời thật đáng yêu, khung cảnh, thanh âm mát rượi cả một vùng trời. Thiền sư Dương Không Lộ đã cho thấy tư thái ung dung tự tại, không bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc đời.

萬里青江萬里天

一村桑柘一村煙

漁翁睡著無人喚

過午醒來雪滿船

Âm:

Vạn lý thanh giang vạn lý thiên

Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên

Ngư ông thuỵ trước vô nhân hoán

Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.

Dịch:

Trời xanh nước biếc muôn trùng

Một thôn sương khói một vùng dâu đay

Ông chài ngủ tít ai lay

Quá trưa tỉnh dậy tuyết bay đầy thuyền

(Không Lộ - 72)

Một khoảnh trời trong in trên giòng nước biếc, một vùng dâu xanh ngát, từ xa xa, khói nhà ai lơ lửng bay ngút đến trời xanh.

Trời xanh nước biếc muôn trùng

Một thôn sương khói một vùng dâu đay

Hình ảnh thật yên bình!

Tác giả đã thể hiện phong thái thong dong, sống hết mình trong hiện tại, không chút lo lắng, ưu phiền trước những nghịch cảnh chông gai, tránh xa những bận bịu lo toan trong cuộc sống. Họ sống vô vi nên có được sự an nhàn tự tại.

Vô vi cư khoáng dã

Tiêu dao tự tại nhân.

(Hiện Quang – 130)

Con người vui thú cùng thiên nhiên, chỉ với một chiếc gậy trúc, một tấm áo tơi, tự tại tiêu dao cùng mây nước, trò chuyện với trăng sao.

Chống gậy non cao rũ bụi đời

Nằm trong mộng huyễn ngắm mây trôi.

(Đoàn Văn Khâm – 56)

Bên giòng sông thơ mộng, bên khóm trúc vi vu, họ biết tuỳ theo cảm hứng để hưởng lạc, thưởng ngoạn thiên nhiên. Khi đói thì ăn, khi mệt thì nghỉ, cuộc sống thật an lạc xiết bao.

Hứng lên xách gậy dạo đường quê

Mệt mỏi buông rèm khểnh chỏng tre.

(Viên Chiếu – 43)

Một con người thảnh thơi vô sự, là người sống nhưng không quên tính chất huyễn ảo của sự vật hiện tượng. Một Thiền sư – thi sĩ vừa siêu việt, vừa hiện thực trong đời sống của mình, không lưu luyến, không vấn vương. Là những người đạt đạo, họ biết rằng chánh pháp còn phải bỏ, huống hồ phi pháp, nếu còn lưu luyến và cái thật thì cái thật sẽ trói buộc ta. Vì thế mà Thiền sư – thi sĩ sẽ buông tất cả như hình ảnh ông chài vô tư trong giấc nồng.

“Ông chài ngủ tít ai lay”

Sống thảnh thơi vô sự kiểu như thế gần giống với tư tưởng của Lão – Trang. Nó có vài điểm cộng thông với chủ trương vô vi, phóng nhiệm hay tuyệt thánh khí trí của Lão giáo. Cũng có thể xem con người thảnh thơi vô sự này là những người vô tâm vô ý như một số nhà nghiên cứu đã đề xuất. Mẫu người này hiện lên với một phong thái thong dong như là kết quả của sự chứng ngộ chân lý Thiền. Hình ảnh ông chài ngủ đến quá trưa mà không ai lay chính là hình ảnh tĩnh mà động, chứng tỏ đã thoát ra khỏi sự ràng buộc về ngoại cảnh, không còn vướng bận như một nhân sinh thường tình. Khái niệm về không gian thời gian cũng không còn ý nghĩa đối với họ.

“Quá trưa tỉnh dậy tuyết bay đầy thuyền”

Sau khi thâm ngộ triết lý Phật giáo, nhà sư – thi sĩ như thể nhập chân lý chiếu diệu thả muôn phương, họ chỉ còn việc sống hồn nhiên với thực tại mầu nhiệm. Danh lợi, quyền hạng, tiền bạc, vật chất... không còn ý nghĩa trong đời sống của họ. Qua đó, chúng ta có thể thấy các Thiền sư– thi sĩ đã vượt lên trên đời sống thường tình của thế nhân mặc dù họ vẫn hít thở, vẫn ăn cơm mặc áo như bao con người bình thường khác. Con người ấy vừa bình dị vô tâm, vừa xuất thế nhiệm mầu và dường như có sự đối lập với người nhập thế đầy nhiệt huyết.

c) Tinh thần phá chấp:

Đức Phật dạy: “Tâm Phật, chúng sanh cả hai đều không sai khác và bình đẳng trong bình đẳng”. Pháp Phật bình đẳng, không phân biệt cao thấp, song chúng sanh có tánh sai biệt nên mê mờ, điên đảo. Tính phá chấp triệt để trong thơ Thiền khẳng định tư tưởng, cách sống của các Thiền sư – thi sĩ, không muốn bị gượng ép gò bó giữa hai thái cực: có – không; thường - đoạn; hay - dở; tốt - xấu, ...

作有塵沙有

為空一切空

有空如水月

勿著有空空

Âm:

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không

Hữu không như thuỷ nguyệt

Vật trước hữu không không.

Dịch:

Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không

Vầng trăng vằng vặc in sông

Chắc gì có có, không không mơ màng

(Đạo Hạnh – 62)

Cặp phạm trù “sắc – không” của các nhà thơ thời Lý chỉ rõ hai khuynh hướng đối lập cội nguồn.

Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không.

“Có – không”, lý tánh Bát Nhã hiện hữu trong từng câu thơ, thể hiện sắc thái của những con người đã thấu triệt được mọi cái “Có – Không”, tự tại an vui giữa cuộc đời. Hãy theo chân các bậc tiền bối đi vào cảnh giới có – không, còn - mất, sống - chết ngay cả hiện tiền lẫn lúc từ bỏ sắc thân giả huyễn.

  Bát Nhã thực vô tông

 Người không mình cũng không

Phật trước hay sau nữa

 Pháp tánh vốn tương đồng.

(Lý Thái Tông – 29)

Đúng vậy, ánh sáng của trí tuệ thật không có nguồn gốc, thân người tạm bợ tồn tại trong mỗi sát na, thì có gì phải phân bỉ - thử? Ngã , nhân, chúng sanh, thọ giả là cái chi chi? Chư Phật ba đời cùng chúng sanh Phật tánh tương đồng, không cao - thấp, Thánh không tăng, phàm không giảm. “Bản Tánh Chân Như” như vầng trăng Lăng Già vắng lặng, như thuyền Bát Nhã vượt trùng khơi. Tuy con mắt phàm tục không nhìn thấy nhưng nó vẫn hiện hữu khi con mắt trí tuệ bừng sáng, pháp tánh chân như tự hiển bày. Đây là cái nhìn của trí tuệ giải thoát và cũng chính là con đường thể nhập lý tánh Bát Nhã chân không của đạo Phật. Nếu ngộ được lẽ huyền diệu của Chân Không thì đó chính là Diệu Hữu. Trong cái tịch tĩnh vắng lặng đó ta nhìn thấy được vạn pháp vốn “không tính” rốt ráo, lìa xa tất cả mọi ý niệm về “hữu”, “vô”. Lìa xa cả ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, xả bỏ tất cả vọng tưởng phân biệt.

 Lặng như vầng nguyệt núi Lăng Già

Hư tựa con thuyền vượt sóng ra

Biết cả lẽ “không” và lẽ “có”

Lại dùng “tam muội” hiểu sâu xa.

(Huệ Sinh – 36)

Còn “có” và “không” là còn mê muội, là không hiểu được pháp tánh bản thể nhiệm mầu trong mỗi chúng sanh. Khi con người đạt đến trạng thái thật sự vắng lặng thì nó có khả năng dung chứa tất cả “hữu”, “vô” hay cả trí tuệ Bát Nhã. Không phải chỉ các vị Thiền sư, mà ngay cả người phụ nữ trong chế độ phong kiến cũng thâm ngộ rất sâu giáo lý Phật đà và có cái nhìn khách quan, “thể nhập” diệu nghĩa sắc – không:

Sắc là không, không tức sắc

 Không là sắc, sắc tức không

Sắc không đều chẳng quản

Mới khế hợp chân tông

(Ỷ Lan – 68)

Thiền nói riêng và đạo Phật nói chung đã hướng con người thời Lý đến với một phương trời tự do, với một tinh thần vô chấp. Vạn hữu vô ngã, đó là chân lý mà chỉ riêng đạo Phật mới có tư tưởng này. Mục đích chính là đạt được cái tâm trống không, vắng lặng. Nhị biên phân biệt chính là sợi dây vô hình tự trói buộc mình, cũng là động cơ thúc đẩy con người phải phấn đấu. Nhưng có người đã khẳng định “cầu Phật, cầu Thiền” để cầu giải thoát sinh tử là việc làm lầm lạc, là hành động của ma.

 Thoát tịch diệt xong bàn tịch diệt

Sau vô sinh hãy nói vô sinh

  Làm trai lập chí xông trời thẳm

Theo gót Như Lai luống nhọc mình

(Quảng Nghiêm – 114)

Tất cả mọi khổ đau đều do con người vọng tâm phân biệt, chấp trước. Với tinh thần phá chấp, không bước theo lối mòn tư duy, tư tưởng triết lý của đạo Phật đã hướng con người thời Lý đến với một khoảng không gian bao la tự do, thoát khỏi mọi lệ thuộc của quy ước, nguyên tắc, giáo điều. Khi con người không còn vướng mắc hay lệ thuộc thì những chuyện sống – chết, thịnh – suy, ..., sẽ nhẹ tựa hồng mao, họ sẽ biết chấp nhận nó và sống an lạc trong vòng xoáy vô cùng của sum la vạn tượng. Hết thảy đều huyễn hoá như trăng in bóng nước, như núi phủ mây chiều, có đó rồi mất đó.

Vầng trăng vằng vặc in sông

Chắc gì có có, không không mơ màng.

Và cuối cùng, một pháp là muôn pháp, cũng chẳng phải có cũng chẳng phải không. Nếu hiểu được như thế thì Phật và chúng sanh không khác.

Pháp tướng vốn như không có pháp

Mơ màng như có lại như không

Pháp này ví có người am hiểu

Thế tục, Như Lai một chữ đồng.

(Huệ Sinh – 37)

d) Tinh thần vô ý:

Thơ Thiền cũng đã cho thấy tình thần vô ý đã ăn sâu vào tiềm thức của con người thời Lý. Hình ảnh đó được thể hiện qua hình tượng thiên nhiên: một dòng nước chảy, một khóm mây bay, thuận theo lẽ tự nhiên mà chẳng cần đắn đo suy nghĩ.

Nước chảy xuống đồi không cố ý

Mây ra khỏi núi vẫn vô tâm

Thuận lẽ tự nhiên, với tâm bình đẳng vô phân biệt, con người thâm ngộ triết lý đạo Phật sẽ không rơi vào con đường lầm lạc. Đạo không đâu xa mà ở ngay trước mắt, quay trở lại với bản thể chân tâm, chớ vẫn vơ như “tâm viên ý mã”. Đạo vốn dĩ đã hiện hữu trong thực tại nhiệm mầu.

 Đạo không hình bóng

Trước mắt, đâu xa

Tìm tự lòng ta

Chớ tìm chốn khác

Dẫu mà tìm được

Chẳng phải là chân

Dù có được “chân”

Chân là gì vậy?

(Nguyện Học – 99)

Thiền sư Nguyện Học đã hiểu rằng: Đạo vốn không có ảnh tượng, mà do ý niệm con người sinh ra. Nếu “vô ý” thì vạn pháp thế gian đều là Phật pháp, nếu tìm cầu giải thoát giác ngộ ngoài pháp thế gian là điều không thể chẳng khác nào bôn ba truy đuổi hoa đốm hư không, hoài công tốn sức tìm cầu “lông rùa sừng thỏ”.

Xuân sang? Ừ thì Xuân cứ sang, hoa cứ nở, và ong bướm cứ chập chờn bay. Mặc ý. Bận lòng chi.

Xuân sang hoa bướm khéo quen thì

Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ

Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo

Thây hoa, mặc bướm, để lòng chi!

(Giác Hải – 83)

e) Tinh thần vô ngôn:

Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni trước khi tịch diệt, đã nói rằng: “cả cuộc đời hoằng dương hoá độ chúng sanh, ta không hề nói một lời nào”. Trên pháp hội Linh Sơn, ngài Ca Diếp cũng lãnh hội được yếu chỉ Thiền Tông bằng hình ảnh “niêm hoa vi tiếu”. Đây là tinh thần vô ngôn của Phật giáo và chính tinh thần này ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc đến con người thời Lý. Vì thân người là hữu hạn nên không thể hiện được chân lý vô cùng, lặng yên không nói mà bày tỏ được tất cả, “dĩ tâm truyền tâm” là phương châm được đề cao tuyệt đối, ngôn ngữ chỉ là phương tiện, như “ngón tay chỉ mặt trăng” mà thôi. Cái trực cảm, giao cảm không cần thông qua ngôn ngữ, lý trí. Họ đề cao sự tự tu, tự chứng bằng sự trải nghiệm của tự thân chứ không nương tựa và kẻ khác. Họ quan niệm “Im lặng và bình tĩnh. Quên hết ngôn ngữ. Trạm nhiên hiện tiền...”. Một vị Thiền sư đã từng cười trước những kẻ tu Thiền cực đoan. Trước phong cảnh mùa trong sáng, hồn nhiên lại muốn làm thơ, làm kệ để lại cho đời.

Thu về hơi mát, dạ lâng lâng

Tử Kiến tài cao vịnh dưới trăng

Sao lại truyền tâm bằng mách bảo?

Si độn! Cười chết bọn Thiền tăng.

(Tịnh Giới - 124) 

Con người vô ngôn đúng nghĩa được thể hiện rõ ràng như thế. Con người vô ngôn đạt đạo ở trạng thái tĩnh lặng, đạt đến đỉnh cao của sự hợp nhất. Con người vô ngôn sẽ có cái nhìn Như Thật xuyên suốt cả thời gian, không gian, sự, lý, tánh, tướng. Đó là cái nhìn “chánh kiến”, họ đạt đạo ngay khi còn tại trần. Vô niệm vô ngôn chính là đặc tính “Cư trần bất nhiễm trần”.

Mình ngọc vang đưa tiếng ảo huyền

Ở trong vẫn lộ tấm lòng Thiền

(Trí Huyền – 60)

Con người vô niệm, vô ngôn hay vô ngã đều giải phóng tuyệt đối con người với mọi ràng buộc với ngoại cảnh và với chính bản thân mình.

Không chỉ thế, con người thời Lý còn thâm ngộ được triết lý Duyên khởi duyên sinh, triết lý Vô thường vô ngã. Thân người giả hợp, mượn tạm 5 yếu tố (sắc thọ tưởng hành thức) để hình thành. Sắc uẩn là cơ thể con người, nhờ 4 đại (đất nước gió lửa) mà hiện hữu. Bốn đại hoà hợp thì khoẻ mạnh, xung khắc thời suy yếu. Lại phải nhờ vào các yếu tố: tri giác, nhận thức, ý chí, tình cảm... mà sống. Sự biến đổi vô thường là bản chất của cuộc đời. Thấu triệt được như thế nên Thiền sư Hứa Đại Xả đã tâm tình:

Tứ xà cùng hợp vốn nguyên không

Ngũ uẩn non cao chẳng có dòng

Chân tính sáng thiêng không vướng mắc

Niết bàn, sinh tử mặc lao lung

(Hứa Đại Xả - 109)

Biết được thân con người huyễn hoá như thế nên Thiền sư – thi sĩ đã bộc lộ tâm tư:

Sắc thân và diệu thể

Chẳng hợp chẳng lìa xa

 Kẻ nào toan tách biệt

Lò lửa một cành hoa.

(Âu Đạo Huệ - 97)

Sắc thân (thân) và diệu thể (tâm) ấy vốn là một, chẳng phải hai. Diệu thể là bản tánh trong trắng, chất phác hồn nhiên thường xuyên hiện hữu trong mỗi con người, nó trường tồn bất diệt trong hợp thân sinh diệt. Nói khác đi, là tinh thần vượt lên trên những bận bịu lo toan, bon chen vất vả của trần đời.

Ngộ được vạn vật duyên khởi duyên sinh nên cũng biết nó vô thường vô ngã. Thân này hợp để mà tan, thành rồi sẽ hoại.

Sinh lão bệnh tử

Lẽ thường tự nhiên

(Diệu Nhân – 59)

Thật vậy, sống chết là lẽ tự nhiên. Có sanh ắt phải có tử. Sanh và tử chỉ đơn giản là hai mặt của một thực tại. Biết được như vậy nên các Thiền sư – thi sĩ thong thả dạo chơi trên đường đời khổ luỵ. Để rồi hoà mình vào cây cỏ thiên nhiên.

 Sông núi trước chùa, chính là hình ảnh chân thực của Người.

 (Đoàn Văn Khâm – 57).

NHẬN ĐỊNH

Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử hào hùng bởi những chiến công hiển hách, thơ Thiền thời Lý đã xây dựng thành công những quan niệm, những hình tượng con người độc đáo, phi thường, khác hẳn các thời đại khác.

Dòng văn học Thiền tông thế kỷ X - XIV, mà tiêu biểu là thơ Thiền đời Lý đã khắc hoạ rất rõ nét hình tượng con người thâm ngộ triết lý Phật giáo. Hình tượng ấy mang đầy đủ phẩm chất hào hùng của dân tộc Đại Việt, đồng thời thể hiện rõ cái nhìn tích cực hơn với cuộc đời. Họ không những tỏ ra có sức sống mãnh liệt sống hết mình trong hiện tại mà đôi khi còn trở nên rất lý tưởng: phá chấp triệt để, tự do tuyệt đối, không phân bỉ thử, thảnh thơi vô sự... Con người thâm ngộ triết lý Phật giáo đã gần như phản ánh đầy đủ qua các tác phẩm thời Lý. Các quan niệm ấy đóng góp nhất định vào việc tôn vinh, ca ngợi con người Việt Nam bất khuất, kiên cường trong chiến tranh chống giặc thù; đoàn kết nhân ái trong việc xây dựng đất nước; độc lập, tự tin, sáng tạo luôn cầu tiến, tích cực hoàn thiện bản thân trong đời sống cá nhân.

Qua phân tích, chúng ta có thể thấy rằng, thơ Thiền đời Lý có xu hướng hướng con người hoà nhập với vũ trụ. Một con người mang được tất cả sức mạnh, một con người tự do, hoàn toàn giải thoát những ràng buộc trong thế giới hữu hạn của trần thế.

Với chủ trương phá chấp, tinh thần vô uý, vô ý, vô niệm, vô ngôn ... các Thiền sư – thi sĩ thời Lý đã nêu ra những phương tiện nhằm tiến tới mục đích duy nhất của đạo Phật là:“khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật chi trikiến”. Họ thể hiện sự tự tin mạnh mẽ vào bản thân, vào cuộc sống. Họ muốn thể hiện năng lực sống của tự thân, thể hiện cái “Xung Thiên Chí” chứ không nên “dẫm lại vết mòn của Như Lai”. Tóm lại, Thiền tông là trường phái đề cao sự tự lực, luôn đả kích sự tìm cầu tha lực, cổ vũ khả năng độc lập sáng tạo của con người. Hình ảnh tiêu biểu và chủ đạo trong thơ Thiền giai đoạn này chính là sự phóng khoáng, sự tự do tự tại, tự lực, tự tin mãnh liệt của con người. 

          Tóm lại, với sứ mệnh cao cả, các Thiền sư – thi sĩ đã đem Đạo vào đời để phụng sự dân tộc, đem lại hạnh phúc cho con người và an bình cho xã hội. Góp phần xây dựng nền văn hoá dân tộc thêm huy hoàng rạng rỡ. Thực hiện phương châm “phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Phật giáo đã ảnh hưởng rất sâu rộng đến quần chúng nhân dân, mang tư tưởng nhập thế để hoá độ vạn linh, thể hiện qua hình tượng con người thâm ngộ triết lý Phật giáo. Đó là hình ảnh con người thanh thoát, thong dong, mặc cho dòng đời xoay chuyển đổi thay mà tâm hành luôn vững chãi. Họ xả thân vì thế cuộc, vui vầy cùng hoa bướm thiên nhiên, sáng vào triều giúp vua trị nước, chiều lên điện bái sám công phu.

 Thơ Thiền thời Lý thể hiện tâm hồn con người thoát tục trong phàm tục, lạc quan, yêu đời, vượt lên trên chấp ngã thường tình, hoà mình vào đại thể thường hằng bất biến. Đại thể đó công nhận hùng lực vô biên của con người trong một thời đại. Thời đại đó đã nâng cánh cho Thơ và Đạo, làm sáng tỏ lên một thời đại hào hùng, oanh liệt./.

H.T. T

[1]Nguyễn Công Lý, Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý – Trần, Nxb Văn hoá thông tin, 1997, tr. 9.

[2]Kiều Thu Hoạch, Tìm hiểu thơ văn của các nhà sư Lý – Trần, TCVH số 6, 1965.

[3] Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Nxb Văn học Hà Nội, 1995.

[4] Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử TTVN, tập III, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 1992, tr. 203

[5] Bùi Duy Tân, Giáo trình văn học Việt Nam, Nxb Giáo Dục, 1997, tr.34

[6] Nguyễn Phạm Hùng, Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn học VIỆT NAM thời Lý Trần

[7] (Vạn Hạnh – 218): tên tác giả và số thứ tự bài được dẫn từ Thơ văn Lý Trần, tập 1, Viện Văn học, do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977. Các trích dẫn sau đều có nghĩa như trên.

http://www.hoalinhthoai.com/news/detail/news-4131/Hinh-tuong-con-nguoi-trong-tho-Thien-thoi-Ly-Tran-.html


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage