Không tác giả,
có lẽ là ca daọ Mà ca dao thì đáng lẽ phải hay hơn. Nhưng đó là ý kiến của tôi
về sau nàỵ Thuở đó, thơ trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư phần nhiều là như vậy,
chẳng hay, nhưng có vần có điệu, đọc lên cũng thấy thợ. Bài "Lính thú đời
xưa" khá dài, chia thành hai phần.
Bài thứ nhất : Lính thú đời xưa.
Ngang lưng thì thắt đai vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai.
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Bên cạnh bài thơ có vẽ hình một người đàn bà nông dân bế đứa con nhỏ, tiễn
chồng ra đi. Ngày nay, người ta tiễn nhau ở bến xe, ở nhà ga, ở sân bay. Thuở
trước, biệt ly diễn ra trên bến thuyền. Thuyền đi chậm, sông nước mênh mang,
nhìn theo không biết bao giờ mới hút bóng. Bước chân xuống thuyền nước mắt như
mưa. Nước mắt của ai như mưa? Của người chồng bước chân xuống thuyền? Chắc
không phải, vì đàn ông đâu có khóc như vậy! Nhưng cũng có thể người chồng khóc
như mưa trong lòng. Khóc như thế, nỗi buồn không khô được, cứ ướt mãi. Thuyền
trôi trên nước , người chồng trôi trong nước mắt. Khóc như mưa, chắc phải là
người vợ. Người chồng vừa bước chân xuống thuyền thì mưa đã ào ào tuôn trên mắt
người vợ đứng trên bờ nhìn theo. Người đi người ở đều ướt sũng nước mưa. Mưa
ướt sũng bến đò. Lúc còn nhỏ, đọc câu thơ, tôi bùi ngùi. Lớn lên, hiểu thêm
rằng biệt ly là khổ. Lớn lên nữa, già đi, lại chột dạ, thấy mình lúc nào cũng
như đang tiễn biệt một cái gì, tiễn một niềm tin bị cuộc đời đánh cắp, tiễn một
quê hương bỗng nhiên phũ phàng, tiễn bóng câu qua cửa sổ, tiễn cả chính mình,
tiễn mình trong từng phút từng giây. Nhưng đó là chuyện khác. Trở về với bài
"Lính thú đời xưa" mà Quốc Văn Giáo Khoa Thư có ghi rõ là "tiếp
theo" :
Lính thú đời xưa (tiếp theo)
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng.
Khổ thay là đời lính thú! Đầy ải nơi đèo heo hút gió, quần quật tay chân hết
sáng đến tối, anh lính muốn than một tiếng cũng không biết kêu với ai ngoài
tre, dang, nứa, điệp điệp trùng trùng. Tre ơi, dang ơi, nứa ơi, có biết chăng
tôi đây đang khổ với tấm thân này! Khổ với tấm thân .... Lúc học lớp ba, tôi
chưa hiểu có thân là có khổ. Chỉ hiểu nỗi khổ biệt ly. Cho nên biết bùi ngùi
với bài thơ thứ nhất mà không rung cảm với bài thơ tiếp theo. Chỉ có một câu
làm tôi thắc mắc mãi, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già, từ đó đến nay. Câu thơ
thật lạ kỳ, như ở đâu bay vào bài thơ lạ hoắc, lãng xẹt. Đó là câu cuối : Nước
giếng trong con cá nó vẫy vùng . Tại sao bỗng có con cá vẫy vùng trong giếng ở
cuối một bài thơ nói về anh lính thú từ biệt vợ sống đầy ải trên núi rừng? Giữa
anh lính với con cá chẳng có một liên hệ gì cả. Cách cấu trúc của câu thơ cũng
kỳ quặc : hai câu tám đi tiếp theo nhau : Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng. Trong một bài thơ lục bát ngày xưa, có khi
tác giả phá thể, chấm dứt bài thơ ở câu sáụ Nhưng nếu thế , tại sao lại không
chấm dứt như thế này : Giếng trong con cá vẫy vùng Tại sao lại thêm chữ
"nó" quái gở vào câu thở Không phải con cá vẫy vùng mà là con cá nó
vẫy vùng. Tựa như con cá với nó là hai, có con cá và có nó ở trong giếng đùa
nghịch với nhau, nó vẫy vùng nơi con cá, con cá vẫy vùng nơi nó. Quái, tại sao
có con cá hạnh phúc như vậy ở đây?. Tôi chịu thua . Mà cũng chẳng ai giải thích
được cho tôi. Tôi đố ai giải thích nổi! Câu thơ nhảy vọt từ chuyện khổ qua
chuyện vui, không đầu không đuôi, không gốc không ngọn, chẳng nghĩa lý gì cả.
Anh lính thú nhớ vợ, mơ về chăn gối ấm êm bên cạnh vợ? Anh lính thú kiệt sức
giữa lúc chém tre đẵn gỗ bỗng thấy loé ra trong một cơn mê sảng hình ảnh thanh
bình của giếng nước ở quê nhà? Bài thơ quá giản dị, chất phác, không cho phép
tôi diễn dịch cao xa. Nhưng câu thơ nằm mãi trong đầu tôi vừa như một hình ảnh
êm dịu, vừa như một vũ trụ bí mật quyến rũ, mời mọc, thách thức óc tưởng tượng
của tôi. Tôi không tóm được nó, cho nên nó dẫn tôi đi lang thang .
Tôi lang thang trong thế giới Thiền. Đừng bắt tôi giải thích tại sao. Trong
Thiền không có tại sao. Nó thế là nó thế. Trong Thiền không có đầu đuôi, khúc
chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba
mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt
tôi giải thích ; hãy lang thang với tôi trong dăm ba câu chuyện thiền . Một ông
sư hỏi Phong Huyệt: " Người nào không hiểu thì chẳng bao giờ thắc mắc; tại
sao vậy?" Phong Huyệt đáp : "Con rùa đi trên đất thì để lại vết chân
trong bùn". Một ông sư khác hỏi Triệu Châu : "Muôn vật quy về Một;
vậy Một quy về đâu?". Triệu Châu trả lời: "Hôm qua, đến huyện Kinh,
ta có may một cái áo nặng bảy cân." Có người hỏi Động Sơn :"Phật là
ai ?" Trả lời: "Ba cân vải". Người kia đem câu hỏi của Động Sơn
hỏi Trí Môn. Ông này cắt nghĩa: "Một mớ hoa, một mớ lụa". Rồi hỏi lại
: - Hiểu chưa? - Dạ chưa hiểu - Tre trúc phương nam, tùnh bách phương bắc. Lại
có người đem cùng câu hỏi đá hỏi Hòa Sơn: "Phật là ai?" Trả lời:
"Ta biết đánh trống, tùng tùng tùng, cắc cắc tùng". Vui thật là vui.
Vui như thế thì hãy đọc thêm vài chuyện nữa.