Chùa Bửu Minh

Các sách giáo khoa, tài liệu nghiên cứu về truyền thông đều coi các chương trình diễn văn phát thanh (radio address) và diễn văn truyền hình (television address) là một thể loại quan trọng của truyền thông đại chúng. Trong đó, diễn văn trên truyền hình được coi là hiệu quả hơn cả trong việc tác động đến công chúng.


Vai trò của các  chương trình nghe nhìn diễn văn, đạo từ trong truyền thông đại chúng

Các sách giáo khoa, tài liệu nghiên cứu về truyền thông đều coi các chương trình diễn văn phát thanh (radio address) và diễn văn truyền hình (television address) là một thể loại quan trọng của truyền thông đại chúng. Trong đó, diễn văn trên truyền hình được coi là hiệu quả hơn cả trong việc tác động đến công chúng.

Theo theo dõi của ngành nghiên cứu truyền thông,  thì công chúng đặc biệt chú ý đến diễn văn phát trên truyền hình, mặc dù bài diễn văn có thể đồng thời được công bố bằng cả bốn phương thức: báo giấy, văn bản online (trên trang web), phát thanh và truyền hình.

Riêng đối với Hoa Kỳ chẳng hạn, tổng thống có các chương trình diễn văn phát thanh định kỳ, chỉ phát trên truyền hình giọng nói của tổng thống, kèm với ảnh chân dung tĩnh, người xem không thấy được tổng thống đang đọc diễn văn, nhưng các thống kê cho thấy bài diễn văn được phát trên truyền hình theo cách đó vẫn có số lượng người theo dõi cao hơn trên sóng phát thanh và hơn hẳn nhiều lần so với việc công chúng tự đọc bài diễn văn in trên báo giấy. Còn những bài diễn văn mà trực tiếp tổng thống phát biểu trước camera thì truyền hình thu hút một số lượng công chúng tuyệt đối áp đảo.

Xem thế thì vai trò của hình ảnh và tiếng nói trong việc phổ biến các bài diễn văn là hết sức quan trọng.

Đối với các đài truyền hình thì việc chuẩn bị thu và phát hình các bài diễn văn của các nhà lãnh đạo là nhiệm vụ số một, và chương trình truyền hình diễn văn là chương trình loại một. Các đài truyền hình dành cho loại chương trình này đạo diễn giỏi nhất, đầu tư chuẩn bị cao nhất, thiết bị tốt nhất…

Người ta nghiên cứu rất kỹ vị trí mà các nhà lãnh đạo sẽ đọc diễn văn, trang trí hậu cảnh, các góc độ thu hình, các cỡ khung hình khi bài diễn văn được đọc, video clip phát trước và sau bài diễn văn…

Thí dụ, đối với truyền hình Nga, đài truyền hình quốc gia PTP ghi hình nhiều video clip phát trước và sau bài diễn văn giao thừa dương lịch của tổng thống để những trợ lý cho tổng thống và chính tổng thống lựa chọn sử dụng.

Đối với các nhà lãnh đạo, những nhân vật nổi tiếng… thì việc phát biểu trên truyền hình và video rất quan trọng. Nhiều vị yêu cầu phải tập dượt trước, ghi hình nháp, có khi phải ghi hình nhiều lần, sửa đi sửa lại. Phó giáo sư phó tiến sĩ V.V Smirnov trong một công trình giáo khoa đã nhắc đến cụm từ được thường xuyên nhắc đến: “một cuộc mít tinh của nhiều triệu người” đối với diễn văn phát thanh.

Khả năng Phật giáo ứng dụng chương trình truyền thông nghe nhìn diễn văn, đạo từ, thông điệp...

Trong Phật giáo chúng ta, thể loại diễn văn, đạo từ, thông điệp… đã được sử dụng rộng rãi trong hơn nửa thế kỷ qua. Chẳng hạn, thông điệp Phật đản, trên các phương tiện truyền thông, khởi đầu được đăng tải trên báo viết, chẳng hạn tờ Phật giáo Việt Nam của Tổng hội Phật giáo Việt Nam trong những năm 50 thế kỷ trước, những năm sau đó đã được loan tải trên sóng đài phát thanh…

Hiện nay, nhu cầu phổ biến các diễn văn, đạo từ trong Phật giáo rất cao. Không chỉ là thông điệp ở cấp cao nhất, mà còn là diễn văn, đạo từ của các cấp thấp hơn. Như diễn văn, đạo từ của các vị viện chủ, trụ trì… gửi đến Tăng Ni sinh Phật tử trong nhiều dịp lễ quan trọng trong năm như Nguyên đán, Phật đản, Vu Lan, Thành đạo, v.v…

Nội dung các bài diễn văn, đạo từ, thông điệp trong Phật giáo hoàn toàn khác với các bài thuyết pháp. Do đó, khi phổ biến bằng phương tiện ghi âm, ghi hình, cũng cần phân biệt chương trình thuyết pháp và chương trình diễn văn, đạo từ, thông điệp…

Với những tiến bộ của khoa học công nghệ truyền thông hiện nay thì việc phổ biến các bài diễn văn, đạo từ, thông điệp bằng các phương thức multimedia như video online,  audio online, dĩa DVD, VCD, CD… là hết sức dễ dàng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí.

Chẳng hạn, một vị Hòa thượng trụ trì thay vì gửi thiệp chúc tết đến môn đồ Tăng Ni Phật tử, thì có thể thu hình đạo từ chúc tết của mình trên dĩa VCD và gửi tặng thay cho thiệp chúc tết. Mà việc in một thiệp chúc tết giấy hiện nay có thể phức tạp và đắt tiền hơn so với việc in một dĩa VCD (chi phí sản xuất chỉ 2000 đồng/dĩa, có thể chép từng bản một trên máy vi tính).

Trong khi đó, nội dung chứa đựng trên đĩa VCD là phong phú và sinh động hơn rất nhiều so với thiệp chúc tết giấy. Những ngày Xuân, Phật tử chúng ta mở đĩa hình đạo từ chúc tết của quý chư tôn đức tại nhà, thì không khí đạo vị trong gia đình chắc chắn sẽ tăng lên rất nhiều, chừng như rước được quý thầy về nhà mừng Xuân cùng chúng ta.

Qua trên, chúng tôi muốn gợi ý đến khả năng chư vị giáo phẩm cao cấp, chư Tôn đức, chư Hòa thượng, Thượng tọa, Trụ trì các chùa phổ biến các thông điệp, đạo từ, diễn văn đến Tăng Ni Phật tử bằng hình thức ghi hình trước phát biểu của chư vị.

Như thế, Phật giáo chúng ta sẽ có thêm một phương thức truyền thông trong hoạt động Phật sự. Thực ra, cách này không phải là mới lạ gì lắm với Phật giáo. Chúng tôi đã có dịp được nghe đạo từ chúc tết của hòa thượng Thích Thanh Từ phổ biến qua băng cassette, lời chúc tết của thiền sư Nhất Hạnh in trên dĩa CD…

Điều mà chúng tôi muốn đề xuất từ góc độ một người làm công tác chuyên môn là nên chú ý đầu tư nhiều hơn nữa cho thể loại chương trình truyền thông này. Không nên lẫn lộn chương trình ghi âm, ghi hình thông điệp diễn văn, đạo từ với các chương trình thuyết pháp.

Trong khoa học về truyền thông chương trình diễn văn là một thể loại riêng, khác hẳn với chương trình giảng dạy (mà có thể coi là tương đương với chương trình thuyết pháp trong Phật giáo chúng ta).

Các chương trình diễn văn, đạo từ cần đến “tính chân thành, bộc bạch vẻ tự nhiên và sắc thái cảm xúc bắt nguồn từ đó, đã tạo nên bầu không khí tin cậy, buộc mọi người phải lắng nghe những lời được nói ra”(1). Thông điệp, diễn văn, đạo từ được đọc, được nói bởi chính người viết ra nó, thể hiện bằng hình ảnh động, sẽ có sức tác động mạnh, hiệu quả lan tỏa cao hơn nhiều so với những dòng chữ đen vô hồn trên trang giấy trắng im lặng.

Đầu tư cho các video clip Phật giáo trước vào sau hình ảnh thông điệp, diễn văn, đạo từ cũng là điều cần lưu ý. Hình như, Phật giáo chúng ta chưa tính đến các yếu tố này. Các video clip thực hiện thành công phát trước và sau bài nói sẽ góp phần tôn cao giá trị của chương trình diễn văn, đạo từ, thông điệp ghi âm, ghi hình tạo không khí trang trọng cho cả chương trình.

Thí dụ, thông điệp của một vị thượng thủ Phật giáo có thể được phát sau video clip thể hiện những ngôi chùa cổ kính, trang nghiêm, trên nền nhạc Phật giáo Việt Nam của Lê Cao Phan đã trở thành bài hát mang tính truyền thống.

Trong các sách giáo khoa truyền thông, các nhà chuyên môn khuyến cáo không nên coi diễn văn là thể loại độc thoại mà phải xem đây “là hình thức đối thoại bên trong với người đối thoại vô hình”(2). Việc trực tiếp chứng kiến của việc đọc văn bản của chính người viết ra nó đã là tốt, nhưng lý luận truyền thông đòi hỏi một hình thức cao hơn là phát biểu miệng một nội dung truyền đạt đến công chúng.

“Lời nói sống động thể hiện những đặc điểm của nhân cách, tính khí của diễn giả. Lời nói ấy có sức mạnh tác động to lớn”(3). Yêu cầu của một chương trình ghi âm, ghi hình diễn văn, đạo từ đòi hỏi tính chất hùng biện để tạo thành những chương trình mạnh. Có lẽ, truyền thông trong Phật giáo cũng không đứng ngoài quy luật đó.

Ghi chú:
(1) (2) (3) V.V Smirnov: Các thể loại báo chí phát thanh – Nhà xuất bản Aspect Press, Moskva, 2002.

Theo: Tập san Pháp luân


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage