Chùa Bửu Minh

Thuyết nhân quả và thuyết nghiệp của đạo Phật là những thuyết rất là khoa học, rất công bằng; nghe qua thì đơn giản và dễ hiểu, nhưng thực ra lại rất phức tạp hơn là chúng ta tưởng.

Có người nói: Quả nào nhân ấy, nhân nào quả ấy; quy luật nhân quả là quy luật công bằng không sai lệch được. Thế nhưng chính câu nói trên chỉ đúng có một nửa. Đúng là quả nào nhân ấy. Thí dụ, một người gặp cảnh ngộ bất hạnh như mất tiền, hay là gặp tai nạn giao thông, phải què chân hay thậm chí mất mạng.

Đứng trên quan điểm nhân quả của đạo Phật mà xét, thì sự kiện bất hạnh xảy ra cho người đó, hoàn toàn phù hợp với những nghiệp bất thiện mà người này đã làm trong quá khứ. Quy luật quả nào nhân ấy đúng là không bao giờ sai lệch.

Nhưng nếu nói nhân nào quả ấy thì lại không đúng, vì sao? Đó là điều mà tất cả Phật tử cần nhận thức cho rõ, vì nhận thức đúng đắn trang bị cho con người một niềm tin vô hạn là chúng ta không phải lệ thuộc quá khứ, mà con người có thể tác động trở lại quá khứ, dù đó là một quá khứ đầy tội lỗi, bằng những nghiệp thiện và cực thiện mà người đó làm trong hiện tại và tương lai.

Đồng thời, con người đó lại biết thường xuyên tu tập tâm, khiến cho tâm mình trước đây nhỏ hẹp, vị kỷ trở thành rộng lớn và vị tha; tâm mình vốn tán loạn, nay trở thành định tĩnh và tập trung, tâm mình vốn hay nghĩ ác, nay hoàn toàn chỉ suy nghĩ thiện và hướng thiên...

Kinh Hạt Muối trong Tăng Chi I, đức Phật đã đưa ra một ảnh dụ rất lý thú. Một ít hạt muối bỏ vào một ly nước nhỏ, khiến cho ly nước đó không thể uống được. Nhưng cũng một ít muối như thế bỏ vào sông Hằng, thì nước sông Hằng vẫn không bị mặn.

Cũng như vậy, một số người có tâm nhỏ hẹp như ly nước, thì dù anh ta có phạm một lỗi nho nhỏ, anh ta cũng cảm thọ khổ tới mức không chịu đựng được nổi. Trái lại, một người có tâm rộng lớn như sông Hằng, thì một lỗi nhỏ như vậy cũng làm cho anh ta khổ đau, nhưng anh ta vẫn chịu đựng được.

Như vậy là tùy người có tâm rộng hay hẹp mà một nghiệp ác được tạo ra, đem lại quả báo khổ thọ khác nhau, nhưng lý do căn bản nhất khiến cho thuyết nhân nào quả ấy trở thành không đúng, là do sự kiện một nghiệp nhân được tạo ra, phải kinh qua một thời gian, và có đủ điều kiện (tức là nhân duyên), thì mới chín muồi thành quả.

Đó là thuyết Dị thục mà sách Duy Thức của đạo Phật thường nói đến. Di thục là chín muồi mà đổi khác. Do thời gian khác nhau, do nhân duyên khác nhau mà nhân đổi khác, biến dị thành quả.

Chúng ta thử nghiên cứu xem, do những nhân duyên gì mà nghiệp nhân đổi khác khi biến thành quả. Trước hết và chủ yếu, có một nhân duyên thường xuyên tác động và tác động rất mạnh là cái tâm của người đương sự. Cái tâm đó có thể tác động rất mạnh, rất có hiệu quả nếu đó là cái tâm rộng lớn như sông Hằng (xem Kinh Hạt Muối-Tăng Chi I).

Ở đây, không có vấn đề giải oan hay giải nghiệp mà người bình thường hay nói một cách sai lầm. Khi tâm chuyển thì nghiệp chuyển. Khi phạm tội, chúng ta chân thành sám hối, tâm chúng ta được an tịnh và chuyển sang hướng thiện. Chính cái tâm sám hối và hướng thiện giúp cho chúng ta chuyển nghiệp.

Nếu tâm không chuyển sang hướng thiện, nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, thì mọi sự gia hộ từ bên ngoài, dù là từ Phật, Bồ tát hay là từ Chúng tăng thanh tịnh, như trong trường hợp lễ Vu lan, sẽ không có hiệu quả.

Nói như vậy phải chăng, có nghĩa là chúng ta không cần đến sự gia hộ của chư Phật, Bồ Tát và chúng Tăng. Vẫn rất cần, nhưng cần như là phương tiện xúc tác, giúp cho tâm ta chuyển sang hướng thiện mà thôi. Cho nên, vấn đề căn bản ở đây là tâm. Nếu tâm chúng ta không bỏ ác, theo thiện, cứ tiếp tục nghĩ ác, nói ác và làm ác, thì mọi lễ cầu siêu hay cầu an đều vô ích, mọi sự gia hộ của Phật, Bồ tát và Thánh chúng đều vô hiệu. Chính vì vậy mà Kinh Pháp Cú viết:

“Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân.”
(Kệ 42)

“Điều mẹ, cha, bà, con,
Không có thể làm được.
Tâm hướng thiện làm được,
Làm được tốt đẹp hơn”
(Kệ 43–Phẩm tâm)

Như vậy tức là đức Phật khẳng định tâm hướng chánh, hướng thiện có sức mạnh rất lớn, nó che chở, gia hộ, giúp ích cho chúng ta nhiều hơn là những thân thích với chúng ta nhất như cha mẹ, bà con có thể giúp ích cho chúng ta. Trái lại, nếu tâm hướng ác, hướng tà, thì tâm ấy còn làm hại chúng ta hơn là kẻ thù hại chúng ta nữa.

Tâm là một sức mạnh lớn tạo nghiệp và có năng lực chuyển nghiệp. Dù trước đây, chúng ta có thể tạo ra nhiều tội ác như tướng cướp Angulimala, hay là sống quá nửa cuộc đời đồi trụy và hưởng lạc như kỹ nữ Ambapali, hay là sống với nhiều tà kiến ngoại đạo nặng nề như Subhada...nhưng nếu gặp được duyên lành, gặp được thiện tri thức, (cả ba người này đều gặp Phật Thích Ca và nghe Phật nói Pháp), khi tâm của họ tỉnh ngộ và chuyển hướng mạnh mẽ theo con đường thiện, con đường giác ngộ và giải thoát, thì những tội ác và sai lầm đã phạm được chuyển hóa, họ đều trở thành A La Hán.

Chánh pháp là như vậy, đức Phật đã đích thân dạy như vậy, thực ra không có con đường giải oan hay giải nghiệp nào khác. Mọi sự cúng bái, lễ lạc, dù có tổ chức cầu kỳ với sự tham gia của Tăng chúng thanh tịnh cũng chỉ có tác dụng ngoại hộ và phương tiện mà thôi. Nghĩa là giúp cho tâm chúng ta chuyển hướng bỏ ác theo thiện, và một khi tâm đã hướng thiện, thì nghiệp chúng ta cũng chuyển hướng, lánh xa cõi dữ tiếp cận cõi lành.

Nếu chúng ta không hiểu được vấn đề căn bản này, nếu tự tâm chúng ta không hướng thiện, nghiệp ác sẽ càng chồng chất nhiều lần, quả báo ác sẽ không thể nào tránh khỏi được. Kinh Pháp Cú có viết:

“Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp”
(Kệ 127-Phẩm ác).

Đúng như vậy, những người sống ác, làm ác mà tâm không biết xấu hổ, không hối hận, không chuyển tâm từ ác sang thiện, không nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, thì như Phật dạy, dù anh ta có trốn ở trên trời, dưới biển, lánh vào hang sâu cũng không tránh được quả báo, nó đeo theo mình như hình với bóng. Đối với những người sống ác thành thói quen, thành cố tật thì tình hình là như vậy, quy luật nghiệp báo nhân quả tác động không sai lệch một ly tấc.

Tuy nhiên, chúng ta tin rằng, loại người sống ác thành thói quen, thành cố tật không phải là nhiều. Đại đa số người bình thường thì không như vậy. Ban ngày có thể làm ác, nhưng ban đêm nằm vắt tay lên trán, không ngủ được và hối hận những việc sai trái mình đã làm trong ngày. Đặc biệt là trong những trường hợp bản thân mình hay là người thân ốm nặng, hay là gia đình gặp chuyện rủi ro, hao tài tốn của, và đặc biệt hơn nữa là khi bản thân mình sắp chết, hay là có người thân sắp chết. Trong những trường hợp như vậy, tâm người ác dễ sinh sợ hãi, dao động, và có thể chuyển sang hướng thiện, dù là muộn màng nhưng còn hơn không.

Những điều trên đây hoàn toàn không phủ nhận tác dụng lớn của các lễ cầu an, cầu siêu hay là các buổi lễ kèm theo trai Tăng, trong đó có mời Tăng sĩ đến tụng kinh hộ niệm cho gia chủ, được tai qua nạn khỏi hay là chết được siêu thoát, được sanh lên các cõi lành. Nhưng cần nhắc lại là tác dụng lớn đó phải thông qua sự chuyển biến trong tâm người gia chủ hay là thân nhân người gia chủ.

Trong những cảnh ngộ đặc biệt như vậy, tâm người gia chủ thường rất ăn năn hối hận, sợ hãi dễ cảm xúc và nhạy bén; do đó, mà dễ dàng chuyển biến từ hướng ác sang hướng thiện. Tâm hướng thiện, đó là điểm căn bản quyết định tác động lớn của các buổi lễ. Nếu tâm không chuyển thì nghiệp không thể chuyển được.

Điều khó khăn là người sống ác, lúc gần chết thường bị hôn mê, gia đình thân nhân vì không hiểu đạo nên bối rối, la hét, than vãn ồn ào, khiến cho tâm người sắp chết đã rối loạn và hôn mê lại càng rối loạn và hôn mê thêm.

Nếu người sắp chết, trước khi hôn mê mà được Tăng sĩ và thiện tri thức hiểu đạo hộ niệm, trong một khung cảnh trang nghiêm, không ồn ào, người sắp chết được nhắc nhở về những việc thiện mình đã làm, được nghe vài bài kinh đọc bằng tiếng Việt, ngắn và dễ hiểu, bỏ tà kiến, thì tâm của anh ta có thể chuyển biến, và nghiệp cũng chuyển theo. Anh ta đáng lẽ sanh vào cảnh giới xấu, thì lại được sanh vào cõi tốt đẹp hơn.

Đó là sức mạnh của cái mà sách Phật gọi là nghiệp gần chết (Cận tử nghiệp). Người chết không đủ sức để hành động bằng thân, thậm chí cũng không nói được, mà chỉ tạo ra ý nghiệp mà thôi. Ý nghiệp đó rất mạnh, có thể quyết định hướng tái sanh, dù là hướng thiện hay hướng ác, cũng đều rất mạnh.

Do đó, vấn đề là nếu là gia đình Phật tử, hiểu đạo, thì phải bày trí một khung cảnh thật sự yên tĩnh và trang nghiêm, để cho con người sắp chết có thể chết trong thanh thản, yên ổn với tiếng chuông, mõ và hộ niệm của chư Tăng và các bạn lành.

Người sắp chết được thân nhân và bạn lành nhắn nhủ về những điều thiện mà anh ta đã từng làm, tốt hơn nữa là thân nhân tiếp tục làm nhiều công đức như bố thí, phóng sanh và hồi hướng những công đức đó cho người sắp chết có được một cái chết yên ổn, và có được một đời sống kiếp sau tốt đẹp.

Trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, có truyện Hoàng đế Asoka (A dục) thực đáng cho chúng ta suy ngẫm. Công đức của Asoka đối với Phật pháp thì mọi người học Phật đều rõ. Có thể nói đây là vị Hoàng đế mộ Phật, và cống hiến cho đạo Phật nhiều nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử không phải của riêng Ấn Độ mà của toàn thế giới.

Đối với một người như vậy, chết rồi sanh lên cảnh giới tốt đẹp phải là chuyện bình thường, ấy thế mà vì lúc lâm chung, vì ác duyên cho nên phát sanh ra một cơn thịnh nộ, khiến vua chết rồi tái sanh làm con mãng xà. Điều may mắn là con vua, A La Hán Mahinda, biết được chuyện này, lập tức đến cạnh nhà vua, lúc bấy giờ đã biến thành con mãn xà, nói lời vỗ về an ủi và nói pháp, khiến Asoka phút chốc tỉnh ngộ, tâm chuyển nên nghiệp cũng chuyển, nó lột xác, chết rồi lập tức tái sanh lên cõi Trời. Vấn đề “Cận tử nghiệp” tức nghiệp gần chết là một chủ đề lớn, không phải trong một bài viết ngắn mà có thể giải quyết hết được.

Chủ đề chính của bài này là tâm có chuyển thì nghiệp mới chuyển. Mọi cuộc lễ bái, cầu siêu, cầu an, nói cho cùng có tác dụng làm cho tâm người đương sự chuyển mà thôi, thực ra, không có người nào khác, mà chính mình phải giải oan và giải nghiệp cho mình.

thienviendaidang.net


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage