Chùa Bửu Minh

I. Cái gì quản lý con người ?

“Nếu không có đấng sáng tạo chủ quản tất cả, không có nguyên lý nào siêu vượt trên con người, thì mọi sự đều được phép”.

Đó là chủ đề cuốn tiểu thuyết Tội ác và Hình phạt của Dostoievsky, một trong những nhà văn lớn nhất của nhân loại. Đây không phải là một vấn đề của riêng Dos, của tiêng văn hoá Tây phương, mà là vấn đề của nhân loại. Từ khi có loài người, con người đã tư duy về vấn đề này và cùng với nó là vấn đề thiện ác, tốt xấu, vấn đề tội lỗi. Và ngày nào còn làm người, chúng ta còn phải tư duy về vấn đề ấy để sống, để hoàn thiện cuộc sống.

Mới đây, trong cuốn Cuộc Đại Thiết Kế Vũ Trụ (The Grand Design, 2010), nhà vật lý lý thuyết Stephen Hawking lý giải rằng không cần đến một Thượng đế để tạo ra vũ trụ. Vũ trụ tự tạo thành, tự phát với những định luật vật lý của nó. Nhưng vì là một nhà vật lý, Hawking chỉ tìm hiểu nhân quả của vũ trụ vật lý mà không đi xa đến nhâ nquả của vũ trụ tâm lý của con người. Thế nên Hawking vẫn mắc vào trong tấm lưới của Dos: Nếu không có một thượng đế cai quản thế giới thiện ác, tốt xấu, thánh thiện và tội lỗi thì mọi sự đều được phép. Nếu chỉ có những định luật vật lý thì thế giới con người sẽ hỗn loạn, cá lớn nuốt cá bé, không có trật tự, không có đạo đức , không có tội lỗi. Nếu không có cái gì nữa ngoài những định luật vật lý thì con người chẳng biết làm sao sống. Pháp luật biết dựa vào đâu? Và dù có pháp luật từ đời thượng cổ, mấy ngàn năm phát triển, tinh chế pháp luật, tội ác có chấm dứt đâu, nhà tù có dẹp bớt đâu. Pháp luật không đủ cho cuộc sống con người.

Nhưng sống là lựa chọn. Lực chọn thái độ trước đời sống. Mặc dù chưa biết “nguyên lý siêu vượt trên con người” ấy là cái gì, chúng ta cũng phải lựa chọn. Để sống. Nói chưa thể biết “có nguyên lý nào vượt trên con người”, vì con người à gì, chúng ta cũng chưa biết rõ. Về mặt vật chất, vật lý học chưa có một lý thuyết thống nhất, nghĩa là chúng ta chưa hiểu rõ về các hạt tạo thành thân thể của mình. về mặt tâm thức, chúng ta chỉ biết vài phần trong cái “phần cứng” của não và hệ thần kinh. Còn “phần mềm”, ý nghĩa là gì, vận hành ra sao, có tác động thế nào, trí nhớ nằm ở đâu, khi thân thể vật lý tan rã, có còn một tâm thức nào không. Chúng ta không biết.

Nhưng bằng lý tính chúng ta có thể lựa chọn cái gì hợp lý hơn, cho phép an tâm hơn đế sống. Trong vấn đề trên, lịch sử Tây phương đã có hai sự lựa chọn đối nghịch nhau .

- Sự lựa chọn thứ nhất: Có một Thượng đế hình dạng và trí óc giống như con người đã tạo ra vũ trụ và con người, và Thượng đế là “đấng quan phòng” chăm sóc, điều khiển, thưởng phạt công cuộc sáng tạo đó.Thượng đế (God, Dieu) là vị Thần đầu tiên và vĩ đại nhất, sáng tạo và chăm lo mọi sự. Chính người Tây phương đã phản bác: nếu Thượng đế tạo ra vũ trụ và chúng ta, thì không thể nào giải thích được sự bất bình đẳng trong số phận con người và tại sao có sự xấu ác trong thế giới. Nếu Thượng đế tạo ra vũ trụ và chúng ta, thì sự xấu tốt do chúng ta làm ra trong một đời này không thuộc về trách nhiệm của chúng ta. Sinh ra tôi đã như vậy rồi mà. Nếu Thượng đế thưởng phạt tôi thì là bất công: tôi không có trách nhiệm gì về thân tâm của tôi vì thân tâm tôi không do tôi mà có. Có rấy nhiều cái “khó xử” mà chúng ta không thể kể hết ở đây.

Nếu quy tất cả mọi sự về cho Thượng đế thì chẳng giải thích gì được cho cuộc đời cả mà chỉ thấy sự không công bằng. Con người là kẻ “bị” sống chứ không có tự do và bình đẳng. Đây là khuyết điểm của thuyết định mệnh, thuyết “ mệnh trời”, thuyết “vĩnh cửu như vậy”,mà Phật giáo gọi là “thường kiến”.

- Sự lựa chọn thứ hai: ngoài con người, không có cái gì siêu việt cả, thế nên mọi sự đều được phép. Đây là các thuyết hiện sinh vô thần, duy vật vô thần, và thuyết “ không trung tâm, không nền tảng” của nhiều nhà hậu hiện đại. Ở trên là một vũ trụ có trật tự, nhưng là một vũ trị tất định và không công bằng, không bình đẳng. Ở đây là một vũ trụ không có trật tự và tuỳ tiện ngẫu nhiên. Không còn cách gì cứu chữa nổi một con người hay một xã hội khi nó nghĩ rằng: “Cứ làm đại đi, chết là hết thôi mà”. Nói theo Tây phương, đây là chủ nghĩa hư vô. Nói theo Phật giáo, đây là “đoạn kiến”.

Chủ nghĩa vĩnh cửu thường kiến và chủ nghĩa hư vô đoạn kiến, có Thượgn đế và bác bỏ Thượng đế, vẫn là cuộc vật lộn trong ý thức của nền văn minh Tây phương cho đến hiện đại. Chỉ riêng việc tin có Thượng đế, nhưng Thượng đế nào, Thượng đế của tôi khác Thượng đế của anh, cũng đủ gay ra ở Tây phương những chiến tranh tôn giáo kéo dài đến tận hôm nay.

Đông phương và rành mạch nhất, hợp lý nhất là Phật giáo, thì lựa chọn giải pháp thứ ba: Tất cả vũ trụ vật lý và tâm lý đều theo định luật nhân quả, từ nhân quả sanh( duyên sanh), hiện hữu theo nhân quả và tiêu diệt theo nhân quả. Từ nhân quả, có nghiệp báo và từ nghiệp báo phải có đời sau, dù ở trong hình thức khác chưa hẳn là con người, để lãnh thọ nghiệp báo đó. Nói rõ hơn, một hành động là nhân trong cuộc sống hiện tại có thể chưa gặp đủ duyên để trổ quả thì vẫn duy trì nghiệp lực của nó để khi gặp đủ duyên sẽ tạo thành kết quả ở những kiếp sống tiếp theo, trong vòng luân hồi nghiệp báo. Chẳng hạn ném một hòn đá xuyên qua một tấm màn giấy. Chúng ta không thấy biết gì về bên kia, nhưng chắc chắn hòn đá vẫn tiếp tục chuyển động vì sức mạnh của hành động (nghiệp lực) vẫn còn đó.

Có thể nói đây là sự lựa chọn Trung đạo: con người có tự do, nhưng phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Không đổ thừa cho một Thượng đế, cũng không phủ nhận kết quả của tất cả việc mình đã làm. Với sự để ý quan sát nhân quả nghiệp báo, dần dần chúng ta sẽ tin và thấy lờ mờ định luật nhân quả, điều mà chỉ có môt bậc Giác Ngộ mới thấy biết hoàn toàn (Tri tam thế nghiệp báo trí lực : trí huệ biết được nhân quả nghiệp báo của quá khứ, hiện tại, vị lai; một trong Mười Lực của một Đức Phật ).

Nói theo khoa học,và theo duyên sanh của Phật giáo, không có một kết quả nào mà không có những nguyên nhân. Cái gì tôi có ngày hôm nay, hạnh phúc hay bất hạnh, thoải mái dễ dàng hay nhiều khó khăn rtắc trở… phải có những nguyên nhân trước đó, có thể rât lâu xa trước đó, chẳng qua là chúng ta không có đủ sức thấy qua những tấm màn ngăn cách mỗi đời. Tôi không thể trách ông trờ, không thể trách hoàn cảnh và người khác, và cũng không thể cho đó là may rủi ngẫu nhiên. Nếu tôi muốn dòng nhân quả của tôi tốt hơn, thì trong lúc này tôi phải giao những nhân tốt. Hiện tại luôn luôn phơi mở những cơ hội cho tôi gieo nhân tốt.

Chúng ta cũng cần để ý những điểm sau.

Thứ nhất, thân với tâm là một thể thống nhất. Cái gì, hành động gì,thân làm tâm cũng phải chịu hậu quả. Cái gì tâm làm (ý nghĩ của tâm) thân cũng phải chịu hậu quả.

Thứ hai là một nhân được gây ra không chỉ ảnh hưởng lên người làm nó, mà còn ảnh hưởng đến người và môi trường chung quanh. Biệt nghiệp (hành động cá nhân) luôn luôn cộng sinh và cộng thông với cộng nghiệp của xã hội. Thế nên Phật giao nói đến chánh báo đi liền với y báo. Y báo là quả báo về hoàn cảnh, môi trường chung quanh mà mình được hưởng.

Thứ ba là trong mức độ con người bình thường hiện giờ của chúng ta, làm cái gì thì chính chúng ta là người được hưởng quả báo của hành động ấy trước tiên và gần như trọn vẹn. Thế nên làm cái gì cho người khác chính là làm cho mình. Chúng ta làm một việc thiện cho ai đó tức là chúng ta đang gởi vào ngân hàng nhân quả nghiệp báo một tài sản phước đức cho mình. Cũng vì lý do này mà Phật giáo nói rằng khi cho ai cái gì thì chúng ta cần biết ơn người đó, vì có họ mà ta mới tích góp thêm được một điều phước thiện. Thứ tư là thái độ, trạng thái tâm thức lúc hành động là quyết định: làm với mục đích gì, tâm lúc ấy mở rộng hay thu hẹp…mà kết quả phước đức là lớn hay nhỏ.

Với định luật nhân quả, chúng ta có chìa khoá để giải đáp và hành động cho mọi vấn đề của cuộc sống. Nhận thức và hành động theo nhân quả là chúng ta quản lý cuộc đời mình cũng như xã hội theo một cách bền vững và tiến bộ tốt đẹp.

Chúng ta thấy định luật nhân quả là nền tảng của Phật giáo. Năm giới của con người dựa trên định luật nhân quả. Con đường tự hoàn thiện cho đến giác ngộ cũng dựa trên nhân quả. Ngay chữ “con đường” đã là nhân quả. Đó là tiến trình tâm linh để đi đến những quả vị giải thoát cho đến Phật quả giác ngộ. Phát Bồ đề tâm nguyện, hành Bồ đề tâm hạnh, là nhân, thì sẽ có ngày đạt đến Bồ đề( giác ngộ) là quả. Tâm thức là một dòng nhân quả tương tục. Chuyển hoá tâm thức là chuyển hoá nhân quả của dòng tâm thức đó. Thế nên, nếu một người không tin và không sống theo định luật nhân quả thì chắc chắn người ấy không phải là phật tử.

II. Những ích lợi của việc tin và sống theo định luật nhân quả

1. Chủ động, tích cực, tự tin. Cuộc đời chúng ta hiện tại là sự biểu lộ ra thành quả của những nhân tốt xấu trong quá khứ, thế nên muốn tiến bộ, muốn tương lai tốt đẹp thìan gy trong hiệnt ại chúng ta phải gieo trồng những nhân tốt. Chúng ta không thẻ đổlo õi, đổ thừa cho hoàn cảnh, cho thần thánh, cho người khác. Anh đã gieo thì anh phải gặt. Và anh mốn gặt thứ gì thì hãy gieo thứ ấy.

Sự lạc quan, yêu quý đời sống, quý trọng thời gian là do tin và sống theo nhân quả. Tương lai không phải là mơ ước viển vông, tương lai nằm trong những việc làm( hành động tốt xấu, nghĩa là nghiệp tốt xấu) ngay trong giây phút này của tôi.

Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả. Và mọi lộn xộn, thậm chí hỗn loạn của đời sống một cá nhân hay của xã hội đều là do thiếu nhận thức về nhân quả và không sống theo nhân quả.

2. Tự do và bình đẳng. Với định luật nhân quả, tôi bình đẳng với mọi chúng sanh trong sự thăng tiến của tôi. Đó là sự bình đẳng tuyệt đối: không ai ăn gian, hối lộ, làm đồ giả, nịnh nọt, bợ đỡ đối với nhân quả được.

Nhân quả khiến tôi bình đẳng trước mọi cơ hội để tiến bộ, cả vật chất lần tinh thần. Nhân quả làm tôi trở thành nhà điêu khắc, kiến trúc sư cho cuộc đời và là người kế thừa duy nhất mọi hành động tốt xấu của tôi. Đây là sự tự do tôi có được.Tự do chọn lựa, tự do hành động và tự do xây dựng cuộc đời tôi.

Nếu tôi nhận ra mọi sự trong cuộc đời này đều có thể chuyển hoá thành một nhân tốt cho tôi, thì tự do của tôi ở khắp tất cả, quyền lực của tôi ở khắp tất cả. Đó là sự lạc quan, niềm vui hướng thượng của người tin nhân quả. Một thí dụ: thấy một cục đá trên đường đi có thể làm ngã té, tôi liệng nó vào lề. Như thế là chỉ một cục đá tầm thường tôi đã chuyển hoá thành một nhân tốt cho hệ thống nhân quả- tức là cuộc đời- của tôi.

3. Không lo sợ. “Không có điều gì có thể xảy ra với mình, nếu nơi mình không có điều đó”. Đây là một phát ngôn khôn ngoan của Phật giáo. Không có quả nào có thể xảy ra với tôi, nếu tôi không có nhân cho quả đó. Người Phật tử sống cuộc đời không lo sợ như thế. Còn nếu có( quả xấu ấy) xảy ra thì sao? Thì hãy ráng chịu đựng, nhẫn nhục bởi vì mình đã có nhân cho quả ấy và nay nhân đang trổ thành quả. Đầu ra tệ thế này bở vì đầu vô đã từng bết lắm. Trách ai nữa, ngoài mình? Và hãy rút kinh nghiệm và nếu muốn không gặp mặt điều đó nữa thì chớ gieo nhân về điều đó nữa.

4. Nhân quả đem đến ràng buộc nhưng nhân quả cũng đem đến giải thoát. Mười hai duyên sanh, từ vô minh cho đến lão tử là tiến trình nhân quả. Mười hai duyên sanh ấy là sợ dây xích mười hai khoen trói buộc ta trong đời này và nó sẽ còn tiếp tục trói buộc ta những đời sau nữa. Chúng ta cũng chỉ biết hki phá bỏ, chặt đứt được trọn vẹn một khoen thì toàn bộ sợi dây sẽ đứt. Vì trong một khoen đã chứ đựng hình thể và năng lực của những khoen truwocs và tác động trực tiếp đến những khoen sau.

Theo Phật giáo, mười hai duyên sanh hay mười hai khoen nhân quả ấy có thể chặt đứt bằng trí tuệ soi chiếu thấy sự không có tự tánh của tất cả các pháp. Như thế chúng ta có thể siêu vượt, giải thoát khỏi tiến trình nhân quả.

Nhân quả là sự thật tương đối. Không nhân quả là sự thật tuyệt đối. Tiến trình đi từ sự thật tương đối “có nhân quả” đến sự thật tuyệt đối “vượt khỏi nhân quả” là tiến trình giải thoát.

5. Lòng bi. Ai cũng có lòng bi tự nhiên. Có lẽ lòng bị là một đặc điểm phân biệt con người với những sinh vật khác. Chắc hẳn lòng bi càng lớn thì cuộc đời chúng ta càng phát triển, càng được nâng cao, càng có giá trị, bởi vì lòng bi là sự rộng lớn của tâm. Ai cũng có lòng bi, lòng thương cảm khi thấy người khác đang bị đè chìm dưới gánh nặng nghiệp quả của họ. Cũng chính nhân quả làm cho lòng bi thêm sâu sắc, hiệu quả. Vì chúng ta không chỉ nhìn thấy hiện tượng đã trổ thành quả bên ngoài, mà chúng ta còn tìm hiểu để nhìn thấy và đoạn trừ, chuyển hoá những nhân đã tạo ra quả hiện tại của một người hay một tập thể. Chẳng hạn, thấy một người không có bữa ăn, chúng tac ho họ tiền, nhưng rồi y chỉ uống rượu, gây thêm những hậu quả tai hại thì sao? Sự giúp đỡ đích thực là cắt đứt, chuyển hoá nguyên nhân gây ra hậy quả này. Sự giúp đỡ đích thực phải dựa trên nhân quả.

Chúng ta thấy Bốn Chân Lý Cao Cả dựa trên nhân quả. Có hiện tượng khổ, đau là những nguyên nhân sâu hơn của khổ, hạnh phúc khi thoát khổ là thế nào, và những phương pháp đường lối để giải quyết được vấn nạn này. Thương xót không phải là thương xót lai rai, qua loa, cho đúng phép. Thương xót thật sự là thấy được khổ nơi người khác và chuyển hoá những nguyên nhân của khổ nơi người khác.

Chúng ta thường hào hứng với những cuộc đổi đời, những cuộc cách mạng. Nhưng cuộc cách mạng đích thực, sâu sắc và hiệu quả bền vững là thay đổi, chuyển hoá hệ thống nhân quả của một người hay một tập thể. Không có cuộc cách mạng nào thực sự hơn, lớn lao hơn và hiệu quả bền vững hơn sự sửa đổi hệ thống nhân quả của một người. Giúp đỡ đích thực là giúp đỡ người khác chuyển hoá hệ thống nhân quả đang vận hành của họ.

III. Kết luận

Không thể nói hết về nhân quả vì nhân quả là tất cả đời sống trước mắt, quá khứ và tương lai. Học hỏi nơi đời sống là học hỏi nhân quả nơi đời sống. Sống là tác động lên hệ thống nhân quả của cá nhân và xã hội theo chiều hướng tốt hơn, đúng hơn và đẹp hơn.


Nguồn:  Văn hóa Phật giáo

Tác giả : Nguyễn Thế Đăng



©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage