Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm
hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná
sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi
trên. Có người hỏi là ta nên định tâm vào hơi thở hay sự chạm xúc của hơi thở ?
Câu trả lời là chỉ nên định tâm vào hơi thở. Hơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay
môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Sự chạm xúc là một đề tài thiền quán khác
biệt, thuộc về pháp môn quán danh (quán danh-sắc). Đó là pháp quán Xúc giới và
các tâm sở có liên quan. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thở, hơi thở có
chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy cần có một chánh
niệm vững mạnh và tuệ giác tri.
Bây giờ ta đem tâm vào hơi thở, hơi thở
vào và hơi thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú tâm vào hơi thở sau một vài
buổi thiền, thì có thể tập đếm hơi thở. Việc nầy để giúp họ
phát triển định lực. Thiền sinh đếm số sau mỗi hơi thở, như sau: "thở vào
... thở ra ... một", "thở vào ... thở ra ... hai", "thở vào
... thở ra ... ba", ... cho đến "thở vào ... thở ra ... tám". Có
thể đếm từ năm đến mười, rồi trở lại số một. Tuy nhiên, thiền sinh nên đếm đến
số tám rồi trở lại từ đầu. Số tám là để nhắc nhở chúng ta về Con Đường Tám
Chánh (Bát Chánh Đạo) mà chúng ta đang cố gắng hành trì để giác ngộ. Các bạn
cần phải cương quyết không để phóng tâm, tâm lang thang chỗ nầy chỗ kia, trong
khi đếm hơi thở. Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8 rồi trở lại
1 ... Qua việc chỉ chú tâm vào đếm hơi thở như thế, tâm sẽ trở nên an định hơn.
Thông thường thì cần phải thực hành như thế trong một giờ để tâm được an định
và vững chắc.
Sau đó, khi tâm an định, bạn có thể bỏ
lối đếm hơi thở và chuyển sang giai đoạn kế. Nếu bạn thở vào một hơi
dài, bạn biết đó là một hơi dài. Nếu bạn thở ra một hơi dài, bạn biết
đó là một hơi dài. Tương tự, nếu bạn thở vào một hơi ngắn, bạn biết đó là
một hơi ngắn. Nếu bạn thở ra một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Ở đây,
dài hay ngắn là gì ? Đó là khoảng thời gian. Nếu cần một thời gian dài để thở
thì đó là hơi thở dài. Nếu cần một thời gian ngắn để thở thì đó là hơi thở
ngắn. Tuy nhiên, phải thở bình thường mà không cố gắng ép hơi thở. Không nên
đặt tên nó là "dài" hay "ngắn". Nếu cần phải đặt tên thầm
trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Chỉ cần biết
nó là hơi dài hay ngắn, nhưng lúc nào cũng phải chú tâm vào luồng hơi đang chạm
xúc vào lỗ mũi hay môi trên. Không nên đem tâm đi theo luồng hơi vào trong thân
thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếu thiền sinh để tâm theo dõi luồng vào trong
thân hay ra ngoài thân thì sẽ không thể làm hoàn hão sự định tâm. Cần phải chú
tâm ghi nhận hơi thở đang chạm xúc lỗ mũi hay môi trên trong một, hai, hoặc ba
giờ.
Đến đây, định tướng (nimitta, ni-mít-tá) sẽ phát sinh. Nếu
định tướng không phát sinh thì bạn có thể chuyển sang hành trì như sau: thiền
sinh để tâm ghi nhận toàn luồng hơi liên tục từ đầu đến cuối. Bạn không nên
đặt tên là: "chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối". Nếu cần phải đặt tên
thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Trong
lúc đó, nhận biết toàn luồng hơi từ đầu đến cuối, đang chạm xúc tại một nơi cố
định (lỗ mũi hay môi trên), và tuyệt đối không theo dõi nó vào bên trong thân
thể hay ra bên ngoài. Nếu thiền sinh hành trì như thế trong một hay hai giờ thì
định tướng có thể sẽ phát sinh.
Bây giờ, cho dù định tướng có hiện ra
hay không, thiền sinh tiếp tục sang giai đoạn kế. Trong giai đoạn nầy, bạn tạo
một ước nguyện trong tâm: "Nguyện cho hơi thở của tôi được nhu nhuyễn".
Từ từ, hơi thở sẽ tự nó trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng, nhu nhuyễn. Bạn không nên
cố tình ép hơi thở để nó nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thì chẳng bao lâu,
bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc. Khi hơi thở tự nó trở nên nhẹ nhàng và tâm
an định theo nó, qua thiền lực, hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lâng lâng,
như thể là họ không có đầu, không có mũi, không có thân nữa, mà cảm thấy chỉ có
hơi thở vào ra nhẹ nhàng và một cái tâm đang theo dõi nó. Lúc nầy, bạn cảm thấy
là không có "tôi", mà cũng không có "nó". Bây giờ, chỉ còn
có một tâm đang gắn chặt vào hơi thở. Nếu tâm được an định và chăm chú vào đó
trong một giờ, thì trong thời gian nầy, tâm không còn liên hệ đến các chuyện
thế tục nữa. Tâm đang ở trong trạng thái thiện (kusala), và trạng thái thiện nầy rất gần đến trạng thái cận
định (upacara samadhi).
Đến đây, tùy theo giới hạnh của từng cá
nhân, định tướng sẽ hiện ra. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những định
tướng khác nhau. Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi thở, dần dần thiền sinh sẽ thấy
định tướng hiện ra, có khi như là một làn chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng,
một ngôi sao, một cụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất to, trùm cả
khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một viên ngọc thạch, một viên
ngọc trai. Nó hiện ra trong các hình sắc khác nhau là vì nó do tưởng
uẩn (saññā) tạo ra.
Lúc ban đầu, định tướng có thể giống như
có màu khói xám. Dần dần, nếu giữ tâm được an định vào hơi thở, hơi thở và màu
khói xám trở thành đồng nhất với nhau, không khác biệt. Sau đó, nếu tâm được an
nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu sắc đó trở thành trắng đục. Mặc dù là màu
trắng, nhưng nếu bạn chỉ chú mục vào hơi thở, hơi thở sẽ trở thành định tướng
và định tướng chính là hơi thở. Nếu hơi thở và định tướng là một, không khác
biệt, khi bạn chú mục vào hơi thở thì bạn cũng chú mục vào định tướng, và khi
bạn chú mục vào định tướng thì bạn cũng chú mục vào hơi thở. Và như thế, bạn
hành thiền tốt và nghiêm túc.
Nếu định tướng trở nên vững bền và nếu
bạn chỉ chú tâm vào định tướng của hơi
thở (anapana nimitta), mà không
chú tâm vào hơi thở nữa, tâm bạn trở nên tập trung vào định tướng lúc đó. Trong
giai đoạn nầy, điều quan trọng là thiền sinh không nên tìm cách chuyển hóa định
tướng. Bạn không nên tìm cách đẩy nó đi xa, hoặc làm cho nó thay đổi hình dạng.
Nếu làm như thế, định lực của bạn sẽ không phát triển, và định tướng có thể sẽ
biến mất.
Tuy nhiên, nếu định tướng hiện ra quá xa
đối với lỗ mũi thì thiền sinh chưa có đủ lực để chuyển sang mức thiền định hơi
thở (anapana jhana samadhi). Tại sao?
Bởi vì đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc quán niệm hơi thở. Bản luận
giải có đề cập rằng việc luyện tâm thiền
định niệm hơi thở (anapanasati
samadhi bhavana) chỉ hoàn tất khi nào tâm quán niệm được giữ tại nơi mà hơi
thở chạm xúc với cơ thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài, xa lìa nơi chạm
xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiền định. Do đó, khi định tướng còn ở xa,
thì thiền sinh không nên chú tâm vào nó, mà phải chú tâm vào hơi thở tại một
nơi cố định. Từ từ, định tướng sẽ đến gần và hòa nhập vào hơi thở.
Khi định tướng có màu khói xám thì đó là
sơ tướng (parikamma nimitta) trong trạng thái sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành màu trắng như một nhúm bông
gòn, đó là học tướng (uggaha nimitta). Đây là một trạng thái
định khá cao. Nếu màu trắng nầy được vững bền, thiền sinh phải an định tâm và
chú mục vào đó. Trong giai đoạn nầy, bạn không nên chú ý đến màu sắc của nó, mà
chỉ chú tâm vào đó như là một loại định tướng mà thôi.
Thí dụ như một ly nước và có một hạt
ngọc trai trong đó. Ta chỉ nhìn hạt trai, như thể đem tâm vào định tướng. Không
nên điều tra, trạch vấn về Khổ, Vô thường, Vô ngã. Không cần biết nó nóng hay
lạnh, cứng hay mềm, mà cũng không cần phân tích màu sắc của nó. Chỉ cần giữ tâm
an định và chú mục vào định tướng. Làm như thế, dần dần định tướng sẽ chuyển từ
màu trắng đục sang một màu chói sáng. Đây là tợ tướng (patibhaga nimitta).
Nếu tâm vẫn giữ an định và chỉ chú mục vào định tướng khoảng 1 đến 2 giờ, hầu
hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5
thiền chi (jhananga) rất dễ dàng
nếu họ phân tích chúng lúc đó. Năm thiền chi đó là:
1.
Tầm (vitakka): đem tâm hướng về định tướng,
2.
Tứ (vicara): bám sát vào định tướng,
3.
Hỷ (pity): ưa thích định tướng,
4.
Lạc (sukha): cảm giác an lạc, sung sướng khi tiếp xúc với định tướng,
5.
Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm về một điểm (đó là định tướng)
Cũng cần biết thêm ở đây là có khi thiền
sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó, thiền sinh vẫn
còn bị các triền cái (nivarana) ngăn
che. Đó là:
1.
Tham dục (kamachanda)
2.
Sân hận (vyapada)
3.
Hôn trầm (thiramiddha)
4.
Trạo cữ (udhaccakukucca)
5.
Nghi ngờ (vicikiccha)
Thiền sinh phải duyệt xét từng triền cái
một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng
cần phải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu.
Khi năm thiền chi đều cùng hiện diện đầy
đủ, thiền sinh sẽ thấy ngay là mình đang vào tầng thiền thứ nhất (đệ nhất thiền), với tợ tướng là đề mục trong
tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Tiếp tục hành trì trong Nhất Thiền như thế
khoảng 1 đến 2 giờ, rồi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chi cho tường tận.
Trong các buổi thiền kế tiếp, thiền sinh
tiếp tục ôn tập, và hành trì thuần thục trong tầng thiền thứ nhất. Có năm loại thuần thục:
1.
Thuần
thục phân biệt: phải thuần thục trong việc phân biệt
các thiền chi sau khi xuất thiền
2.
Thuần
thục nhập định: phải thuần thục nhập thiền bất cứ lúc
nào mà mình muốn
3.
Thuần
thục quyết tâm: phải thuần thục giữ mức thiền trong
suốt thời gian mà mình đã định trước
4.
Thuần
thục xuất định: phải thuần thục xuất ra khỏi tầng
thiền mỗi khi mình muốn
5.
Thuần
thục xét duyệt: phải thuần thục xét duyệt các thiền
chi. Tương tự như mục số 1.
Thiền sinh nên nhận thức rằng tầng thiền
thứ nhất rất gần với năm triền cái - tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cữ, và
nghi ngờ. Thiền sinh cũng nên nhận thức rằng các thiền chi Tầm và Tứ trong tầng
thiền thứ nhất làm cho tầng thiền nầy không an định bằng tầng thiền thứ nhì. Vì
thế, từ ước muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiền chi Hỷ, Lạc,
Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ
có thể đạt vào tầng thiền thứ nhì,
vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền,
thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.
Sau đó, thiền sinh nhận thức rằng Hỷ
cũng không đem lại an định, nên có ước muốn bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất
Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể
đạt vào tầng thiền thứ ba, vốn chỉ
còn hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Tam Thiền, thiền sinh
hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.
Sau đó, thiện sinh nhận thức rằng nếu cứ
duy trì Lạc thì lại là một hình thức tham thủ vào cảm giác vui sướng. Cho nên,
với ý định bỏ Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền
sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ tư.
Lúc đó, hai thiền chi mới sẽ sinh ra: Xả và Niệm, thay thế Nhất Tâm. Lúc bấy
giờ, thiền sinh ở trong trạng thái "xả
niệm thanh tịnh", không còn câu chấp vào các cảm giác, và hơi thở trở
nên nhẹ nhàng, hầu như tan biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quen
thuộc, gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đó một cách nhẹ nhàng,
bình thản. Sau khi vào được Tứ Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục
tương tự như trên.
Thiền sinh nên tìm đọc bộ Thanh Tịnh Ðạo
(Visuddhi Magga) của Ngài
Buddhaghosa, nhất là phần Niệm Hơi Thở trong chương VIII. Sau cùng, thiền sinh
cũng cần nên biết rằng công phu hành thiền để đắc bốn tầng thiền như trên chỉ
là một giai đoạn sơ khởi, tạo định
lực bền vững, dùng đó để làm cơ sở phát triễn tuệ minh sát và tiến đến giải
thoát. Trong tiến trình tu học, thiền sinh không nên dừng ở đó, mà cần phải
tiếp tục nỗ lực hành trì các giai đoạn kế tiếp, như quán từ bi, quán niệm ân
đức Phật, quán tứ đại, quán các sắc pháp, quán thân thể (32 bộ phận), quán các
danh pháp, quán lý duyên sinh và các giai đoạn thanh lọc tâm.
Bình
Anson trích dịch