Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương.
 Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự 
ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang, căn cứ trên văn ngữ và văn phong, 
chắc ra đời sớm nhất vào khoàng đầu Tống. Hòa Thượng tìm ra được bản xưa
 hơn, có lẽ là xưa nhất, mà Hòa Thượng ước đoán đã có mặt từ thời Hậu 
Hán hoặc Tam Quốc. So sánh hai văn bản, Hòa Thượng rút ra nhiều nhận xét
 lý thú. Tôi học theo Hòa Thượng để triển khai ba vấn đề mà tôi sẽ trình
 bày:
- 
- Nội dung rất nguyên thủy của Kinh 42 Bài; 
- Vài nét đại thừa trong văn bản xưa; 
- Những thêm thắt của ngôn ngữ thiền trong bản mới. 
 

Tượng Đức Phật Thích Ca tại Nha Trang 
I.Nội dung rất 'nguyên thủy':
Kinh 42 Bài, như tôi vừa nói, được Trung Quốc dịch rất sớm, thời Hậu Hán. Có nơi còn ghi rằng 'Kinh 42 Bài là
 kinh đầu tiên ở Trung Hoa'. Đây là 42 bài kinh ngắn, rất ngắn, rút ra 
từ các kinh lớn, chủ yếu là để huấn dụ các vị xuất gia. Tuy vậy, giới 
tại gia đọc kinh vẫn thấy lợi ích, mỗi ngày đọc một bài thì thấy ngày đó
 thơm. Đó là cảm giác của tôi.
Kinh điển Phật giáo, như ai cũng biết, vô cùng rộng, vô cùng sâu. 
Trong biển kinh tạng mênh mông đó, làm sao rút ra 42 lời huấn dụ, vừa 
ngắn, gọn, dễ hiểu, vừa chứa đựng tinh túy của giáo lý? Chuyện khó đầu 
tiên của việc trích truyển là lựa chọn. Ở đây, sự lựa chọn không phải 
chỉ khó vì kinh điển mênh mông, mà còn khó vì trường phái trăm hoa đua 
nở.
Người tuyển chọn đã lấy một quyết định rõ rệt: nhìn cây từ gốc, và 
gốc đó hiển nhiên là lý thuyết tứ diệu đế. Tứ diệu đế xuyên suốt quyển 
kinh, một cách nhất quán, từ đầu đến cuối.
Ngay từ bài đầu tiên: 'Phật nói, từ biệt cha mẹ, xuất gia hành đạo, 
nên gọi là sa môn. Thường giữ 250 giới, làm theo tứ đế, bước tới thanh 
tịnh, thành A la hán.' Ngay từ câu đầu tiên, và chỉ một câu đó thôi, lý 
tưởng tu hành của nguyên thủy đã được xác nhận trong bốn từ ngữ: tứ đế, 
giới, bước tới, A la hán.
Tứ đế, ai cũng biết: khổ, tập, diệt, đạo. Khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổ, con đường đưa đến diệt khổ.
Giới: sự tu dưỡng. Giới thường đi với Định và Tuệ. Trong quyển kinh 
nầy,tôi không thấy nói tới định và tuệ một cách khẩn thiết, mà chỉ thấy 
nhấn mạnh dai dẳng đến giới. Có thể vì đây là quyển kinh dành cho các vị
 xuất gia. Cũng có thể vì ảnh hưởng của tiểu thừa.
Bước tới: tâm chí bước tới. Quyển kinh nhấn mạnh đến hạnh tinh tấn mà tôi sẽ nói nhiều sau đây.
A la hán: ngay từ câu đầu, quyển kinh đã xác nhận rằng lý tưởng của 
người tu hành là A la hán, nghĩa là lý tưởng tiểu thừa. Phật cũng chỉ là
 một A la hán. Đây là điểm mà đại thừa bác, là đầu mối của sự phát triển
 lý thuyết đại thừa.
Từ bài 2 trở đi, hầu như tất cả đều nói tới giới, nghĩa là con đường 
đưa đến diệt khổ. Chịu khó phân chia tỷ mỷ và gượng ép, tôi thấy các vấn
 đề sau đây được đề ra: vô ngã: 1 bài, vô thường: 2 bài, thiện ác: 4 
bài, sám hối: 1 bài, bố thí: 2 bài, tinh tấn: ít nhất cũng 7 bài.
Đề mục được nói nhiều nhất, như chỉ luồn kim từ bài đầu đến bài cuối,
 là ái dục. Quyển kinh, vì vậy, rất nhất quán. Đây là một lời khuyến 
cáo, nhắn nhủ khẩn thiết và ân cần: muốn tu hành được, muốn đắc đạo, 
phải bỏ ái dục tận gốc.
Tôi lựa chọn một số bài để đọc ra đây, lần lượt theo thứ tự các đề mục vừa trình bày ở trên.
1.Vô ngã: trong bài 18, và chỉ một bài thôi.
'Phật nói, một cách chín chắn và thuầnthục, hãy tự nghĩ nhớ, trong
 cơ thể, bốn đại đều có tên riêng, không có cái ngã ký sinh ở đó. Ký 
sinh ở đó đi nữa thì cũng không vĩnh cửu, sự việc chỉ như ảo thuật mà 
thôi.'
Tứ đại, hiểu một cách thông thường, là đất, nước, gió, lửa, bốn 
nguyên tố tạo thành cái mà tôi gọi là tôi. Một trong bốn nguyên tố đó 
bất thần đình công thì cái mà tôi gọi là tôi chẳng thấy còn ở đâu nữa. 
Như đi coi hát xiệc.
2.Vô thường: được nói trong hai bài 16 và 37. Tôi chỉ đọc bài 16:
'Phật nói, nhìn trời đất hãy nhớ vô thường, nhìn núi sông hãy nhớ 
vô thường, nhìn vạn hữu hình thái phong phú hãy nhớ vô thường. Giữ tâm 
trí như vậy thì đắc đạo mau chóng.'
Bài 37, không cần đọc, ai cũng biết. Phật hỏi một vị sa môn: sinh 
mạng con người tồn tại trong bao lâu. Vị đó nói 'trong vai ngày', tưởng 
như vậy là thuọc bài, không ngờ bị Phật chê. Vị thứ hai, láu lỉnh hơn, 
hạ xuống còn 'một bửa ăn'. Phật chê. Vị thứ ba sáng tạo tài tình; Sinh 
mạng con người không dài hơn một hơi thở. Thở ra, rồi không thở vào nữa:
 thế là xong một kiếp người! Phật khen: 'Hay thay, ông đáng được gọi là người hành đạo.'
Tôi nghĩ: vấn đề không phải là nói cho hay, cho bóng bẩy, vấn đề là 
nói cho thật. 'Vài ngày' là không thật. 'Một bửa ăn' là không thật. 
Trong chúng ta đây, ai cũng lẫm liệt ba, bốn mươi năm trở lên. Một hơi 
thở là thật, không có gì thật hơn. Nói 'một bửa ăn''vài ngày' là còn 
thấy khối xương thịt nầy quá to, còn thấy mình quá vĩ đại. Hãy thử đặt 
con người trong cái vũ trụ vô cùng, trong thời gian vô tận thì nó là cái
 gì nếu không phải chưa được là hạt bụi? Saint-Exupéry vẽ một hình ảnh 
độc đáo: ông cho chú bé hoàng tử của ông lạc bước trên một hành tinh, 
nơi đó chỉ có độc nhất một người ở, và người đó làm mỗi một công việc 
duy nhất nhất là thắp cây đèn duy nhất ngoài đường. Hành tinh xoay một 
cái là sáng, xoay một cái là tối, vừa sáng đã tối, cho nên người thắp 
đèn vừa mới thắp đèn là đã phải tắt đèn, vừa mới tắt đèn là đã phải thắp
 đèn, thắp, tắt, tắt, thắp liên tục. Sinh mạng con người cũng chỉ thế 
thôi: vừa thắp đã tắt.
3. Thiện ác: ba bài liên tiếp: 3, 5, 6. Bài 3 nói đến mười sự ác, bỏ 
mười sự ác đó thì được mười sự lành. Ba sự ác do thân mà ra: sát sanh, 
trộm cướp, dâm dục. Bốn sự ác do miệng: ly gián, mắng chưởi, dối trá, 
thêu dệt. Ba sự ác do ý: ganh ghét, tức giận, u mê. Mười sự tạo nên 
nghiệp. Tránh được mười sự đó thì 'chắc chắn đắc đạo'. Phật nói thế. 
Nhưng Phật tha cho chúng ta năm sự, chỉ buộc người tại gia chúng ta giữ 
ngũ giớI thôi: không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói
 dối, không uống rượu.
Trong chúng ta, chắc chẳng có ai sát sinh. Nhưng các sự kia thì tôi 
không biết. Ngoài ra, có một thứ trộm cướp đang làm chúa tể hiện nay: 
tham nhũng. Tham nhũng là trộm cướp, hãy nói thẳng như vậy. Ủại Trí Độ 
Luận định nghĩa trộm cướp là 'không cho mà lấy' (2). Trong mánh mung 
tham nhũng, không bao giờ có sự 'cho'. 'Có ba trăm lạng việc này mới 
xong' là không có cho, chỉ có lấy. Và lấy như vậy, tức là cướp mạng 
người, tức là sát sinh, Đại Trí Độ Luận nói rõ như vậy. Tôi trích:
'Mạng sống có hai: trong và ngoài. Nếu cướp tài vật, ấy là cướp 
mạng ngườI, vì sao? Vì mạng sống dựa nơi cơm ăn, áo mặc...mới sống. Nếu 
cướp, nếu giật, ấy gọi là cướp mạng ngoài, như kệ nói:
Hết thảy chúng sanh
Lãy áo cơm nôi sống
Hoặc cướp hoặc trộm lấy
Ấy gọi là cướp mạng' (3).
Ông (bà) tham nhũng, ấy là ông (bà) đang giết người. Đố ông (bà) chạy
 thoát cho được. Phật nói trong bài 5: hét lên một tiếng thì y như có 
tiếng vang dội theo; đi ra mặt trời thì y như bóng mình đi theo với 
mình. Gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Sống ở đời mà chỉ ăn đô la thì chết 
xuống âm phủ Diêm Vương nó chẳng cho cơm mà nhai đâu, chỉ bắt nhai tiền.
Nhưng đó là Diêm Vương. Phật thì không như vậy: ai cho ác, Phật trả lại lành:
'Có người nghe phong cách của Như Lai là giữ đại nhân từ, ác đến 
thì trả lành, nên đến mắng Như Lai. Như Lai yên lặng, không trả lời, 
thương họ làm thế là vì si cuồng. Mắng rồi, Như Lai hỏi, ông đem lễ vật 
biếu người, người không nhận thì lễ vật ấy đem về đâu? Đem về cho tôi. 
Văy ông mắng Như Lai, Như Lai không nhận thì ông cũng tự nhận lại, gây 
họa cho mình.’ (bài 5).
Và Phật khuyên hãy cư xử như thế nầy:
‘Phật nói, người ác hại người hiền, thì như ngửa mặt lên trời mà 
nhổ nước dãi, nước dãi không bẩn trời mà lại bẩn mình; như ngược gió 
tung bụi, không dơ người mà lại dơ bản thân.’ (bài 6).
4. Bố thí: được nói trong hai bài 7 và 7. Tôi đọc bài 8:
‘Phật nói, thấy người bố thí, hãy giúp một cách vui vẻ, thì cũng 
được phước báo. Hỏi, phước ấy có giảm bớt đi không? Phật nói như lửa nơi
 một cây đuốc, hàng ngàn hàng trăm người đem đuốc đến lấy lửa ấy mà nấu 
ăn, soi sáng, lửa ấy vẫn như cũ. Phước ấy cũng như vậy.’
Bố thí là hạnh số một trong đại thừa, nên tôi không nói nhiều ở đây, 
chỉ xin nói một cách thấp thấp và rất thực tế. Là như thế nầy: người nào
 không muốn nhai đô la trước mặt Diêm Vương thì nên suy ngẫm bài kinh 
nầy. Hãy lấy đô la đó mà làm việc thiện ngay từ bây giờ. Đốm lửa mà 
người đó thắp lên từ ngọn đuốc trong bài kinh sẽ soi sáng đường đi của 
họ và không dẫn họ đi đến nơi tăm tối, chỗ mà ai có nợ đều phải trả.
5. Tinh tấn. Bởi vì tu là phải tinh tấn, cho nên bài nào cũng nói đến
 tinh tấn, rõ nhất là trong các bài 15, 17, 32, 33, 34, 38, 39. Tôi chỉ 
đọc ở đây hai bài. Một đoạn trong bài 32:
‘Phật nói, hành đạo là như một người chiến đấu với muôn người. Mặc
 áo giáp, cầm vũ khí, tiến ra chiến trường. Nhưng rồi có kẻ khiếp đảm, 
tự lui mà chạy; có kẻ nửa đường bỏ về; có kẻ quyết chiến mà chết; có kẻ 
đại thắng mà về, thiên chuyển lên cao.’
Thế nhưng tinh tấn không có nghĩa là nóng nảy, quá độ, nhảy vọt. Bài 
33 dạy như thế nầy, tôi nghĩ áp dụng trong bất cứ lĩnh vực nào cũng 
đúng:
‘Có vị sa môn đang đêm tụng kinh tiếng nghe rất buồn, có vẽ hối 
tiếc, lưỡng lự, muốn trở về thế tục. Phật gọi mà hỏi, khi ông ở nhà thì 
đã làm gì? Thưa thường đánh đàn. Giây đàn dùi thì thế nào? Thưa không 
kêu. Giây đàn căng thì thế nào? Thưa mất tiếng. Căng dùi vừa phải thì 
thế nào? Thưa, âm điệu phát ra đủ cả. Phật nói, học đạo cũng phải như 
vậy, giữ cho tâm trí chừng mực thì đạo phải được.’
Như vậy tu la vui hay buồn? Phật nói: vui lắm; hãy nếm lời Phật nói 
rồi thấy như nếm đường phèn: bên ngoài cũng ngọt, hai bên cũng ngọt, ở 
giữa cũng ngọt, đâu cũng ngọt cả. Thích thú như vậy là đắc đạo (bài 39).
6. Bây giờ tôi đến đề tài cuối cùng, ddề tài quan trọng nhất, bàng 
bạc khắp cả quyển kinh, thử tính sơ sơ: bài 1, 2, 11, 12, 13, 19, 20, 
21, 22, 23, 24, 25, 26, 28, 28, 30, 31, 32, 40, 41. Đó là ái dục; chặt 
đứt nó được thì thấy niết bàn. Không một chữ nào trong quyển kinh nói 
đến thập nhị nhân duyên, nhưng ai cũng biết ái dục là khâu quan trọng 
nhất trong mười hai nhân duyên, từ đó mà đưa đến sinh tử luân hồi, quẩn 
quẩn quanh quanh trong vòng sống chết.
Tôi chọn đọc vài bài, bài 2 trước tiên, vì bài nầy đưa ra hình ảnh vị sa môn thời nguyên thủy:
‘Phật nói, cạo bỏ râu tóc, làm bậc sa môn, tiếp nhận lấy đạo, thì 
hãy rời bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ. Mỗi ngày đứng bóng ăn một
 bữa, mỗi đêm duới cây ngủ một lần, thận trọng đừng thêm. Làm cho người u
 mê, tồi tệ chính là ái dục.’
Ăn ngủ biết vừa đủ: đó là khuất phục ái dục. Khuất phục hoa danh (bài
 19); khuất phục tiền của (bào 20); khuất phục sắc đẽp (bài 20, 22, 26);
 khuất phục sự ràng buộc vợ con (bài 21); khuất phục dâm, nộ, si (bài 
23); khuất phục nữ sắc (bài 24); khuất phục tình dục (bài 27, 28, 29, 
30), ôi, Phật thừa biết rằng cuộc chiến đấu đó gay go lắm, giống như con
 trâu cày ruộng, chân ngập trong bùn sâu:
‘Phật nói, sa môn hành đạo là như con trâu mang nặng, đi trong bùn
 sâu, mệt nhọc đến mấy cũng không dám ngoái nhìn hai bên, mà phải đi cho
 mau, rời khỏi bùn sâu, mới được nghỉ ngơi. Sa môn coi ái dục còn hơn 
bùn sâu, nên thẳng tắp một mặt mà hành đạo, mới có thể thoát khỏi mọi sự
 khổ lụy.’ (bài 41).
Nhưng chân lý là chân lý, và chân lý đó không phải chỉ đúng đói với 
các vị sa môn mà đúng cho tất cả mọi người, nghĩa là cho cả chúng ta. 
Giản dị vô cùng:
‘Phật nói, con người do ái dục mà lo buốn, do lo buồn mà sợ hãi. 
Không ái dục thì không lo buồn, không lo buồn thì không sợ hãi.’ (bài 31).
Phật nói thêm:
‘Con người đói với ái dục thì cũng như cầm đuốc lửa mà đi ngược gió, ngu mà không bỏ đuốc xuốngthì tất bị cháy tay.’ (bài 23).
Đúng là ngu! Biết ngu ấy là bước đầu trên con đường diệt khổ. Rồi 
càng bước, càng thấy thanh tịnh. Bởi vậy quyển kinh kết thúc bằng một 
câu nói mà ai thể hiện đều thấy đời sống nhẹ nhàng:
‘Phật nói, Như Lai coi cái ngôi vương hầu như khách trọ, coi cái qúy vàng ngọc như sỏi đá, coi cái đẹp tơ lụa như giẻ rách.’ (bài 42).
II. Vài nét Đại Thừa:
Trên đây tôi đọc khá nhiều bài kinh, cốt để các bạn thấy nét chính 
của cả quyển kinh: tính chất mộc mạc. Không lý thuyết cao xa, không văn 
chương bóng bẩy, lời bình dị, ý dễ hiểu, quyển kinh gói gém hành trang 
lên đườngcủa một sa môn vừa hành đạo. Phật tiễn vị đó lên đường và dặn 
dò: ‘Hành đạo thì như cái cây trong dòng nước, hãy theo dòng nước mà 
trôi đi, không mắc bờ bên kia, không mắc bờ bên nầy, không bị người với 
lấy, không bị qủy thần ngăn chận, không bị nước xoáy làm đùng lại, không
 bị thối rã, thì Như Lai bảo đảm cây ấy vào được biển cả.’ (bài 25).
Như tôi đã nói ở trên, quyển kinh đặc biệt nhấn mạnh giới, điều mà 
tiểu thừa trân trọng bảo tồn, nhiều khi bảo tồn đến mức bảo thủ. Trong 
ba phương pháp giới, định, tuệ mà Phật dặn dò, đại thừa lại có khuynh 
hướng đặc biệt nhấn mạnh đến tuệ, phát triển lên đến chót vót cao xanh 
khả năng lý thuyết trừu tượng siêu việt của các đại triết gia Phật tử. 
Tuệ được nói đến trong hai bài kinh, vẫn với lời lẽ giản dị, mộc mạc, 
nhưng ý nghĩa sâu thẳm. Tôi đọc bài kinh 12:
‘Phật nói, lành là gì, là chí hành đạo. Lớn là gì, là chí nguyện 
phù hợp với đạo. Mạnh nhiều là gì, là nhẫn nhục; nhẫn nhục thì không thù
 oán, tất được người trọng. Sáng nhất là gì, là dơ bẩn của tâm trí được 
trừ hết, hành vi của tội ác được diệt sạch, ngay từ bên trong mà sáng 
không tỳ vết, thì vô thỉ đến giờ, vũ trụ có gì, dầu chưa manh nha, cũng 
biết, thấy và nghe cả: được tuệ giác biết toàn bộ mới là sáng nhất.’
Gác qua một bên hai chữ nhẫn nhục, vốn là một trong những hạnh bồ tát
 lớn nhất của đại thừa, tôi chỉ nói đến chữ ‘sáng’, sáng không tì vết, 
sáng từ bên trong, ý chính của bài kinh. Làm thế nào để tâm trí được 
sáng? Trừ hết dơ bẩn. Làm thế nào trừ hết dơ bẩn? Diệt sạch hành vi của 
tội lỗi. Bài kinh đề cao hành vi, bởi vì hành vi tạo ra nghiệp. Mới nghe
 thì có vẽ giản dị. Nhưng phát triển ý đó ra thì tư tưởng đại thừa vô 
cùng phong phú. Trước hết, hành vi thì có, nhưng tác giả của hành vi có 
hay không? Cái ‘tôi’ đã là không có, thì ai tạo ra hành vi, ai chịu 
nghiệp? Ai tu? Ai chứng? Đừng hỏi thì thôi, hỏi thì đi học tập ngút ngàn
 trong rừng rậm đại thừa. Muốn tìm lối ra, phải nhai cho được một chữ 
khó nuốt là chữ tâm. ‘Hết thảy chúng sinh do tâm tư tưởng khác nhau nên 
tạo nghiệp khác nhau, vì vậy mà có sự luân chuyển trong mọi nẽo đường’ 
(4). Tâm tưởng tạo ra hành vi, biểu lộ qua thân, miệng, ý. Nhưng tâm là 
gì, cứng hay mềm, tròn hay méo, nằm ở đâu trong lục phủ ngũ tạng? Mình 
biết là nó có, bởi vì mình biết tâm an hay bất an. Nhưng nó ở đâu, lấy 
ra xem chơi, thì chịu. Vậy mà mở quyển kinh đại thừa nào ra ũng thấy nó.
 Nó ở cùng khắp. Thử đọc:
‘Tâm thì không có hình sắc để có thể nhận thấy. Nó chỉ do các pháp 
không thật tập hợp lại mà phát khởi ra, hoàn toàn không có chủ thể, 
không phải bản ngã và sở hữu của bản ngã. Dạu rằng tùy nghiệp mà biểu 
hiện khác nhau, nhưng thật sự trong đó không có cái chủ thể tạo tác. Do 
đó các pháp toàn là không thể tư duy mô tả, thực chất giống như huyển 
ảo. Người có trí tuệ biết như vậy thì hãy tu tập thiện nghiệp.’ (5).
Tác giả của hành vi là ai? Là tâm. Nhưng tâm có hay không? Lại phải 
hiểu chữ ‘có’. Lại phải hiểu chữ ‘không’. Giữa thiện và ác, giữa hành vi
 và tác giả, đại thừa dựng lên chữ ‘không’, căn bản của tất cả lý, hạnh,
 quả, thật tánh của sự vật, mà bát nhã gọi là ‘không tam muội’. Đây là ý
 niệm tuyệt đối về ‘không’, là ‘không’ tuyệt đối, chứ không phải là 
‘không’ đối đãi, không đối với có. Phật nhấn mạnh mối liên lạc giữa 
không tam muội với chứng ngộ của Phật:
‘Xá Lợi Phất, khi ta chưa được tuệ giác Phật đà, ngồi dưới cây bồ đề 
đại thọ nghĩ rằng chúng sanh vì không được phương pháp gì mà phải lưu 
chuyển sinh tử, không được giải thoát? Ta lại nghĩ cxhúng sanh vì không 
có không tam muội nên lưu chuyển sinh tử mà không cứu cánh giải 
thoát...Được không tam muội thì được Vô nguyện tam muội, được Vô nguyện 
tam muội thì thành tựu vô thượng giác’. Thì sáng.
Thấy ‘không’ thì sáng. Sáng thì sạch nghiệp, thì không tạo ra nghiệp 
mới nữa. Phật giải thích cho Xá Lợi Phất: ‘Không tam muội thì không chấp
 ngã, nhân, thọ mạng, không chấp chúng sanh, không chấp các hành, nên 
không tạo nghiệp mới, không tạo nghiệp mới nên không còn hậu nữu, không 
còn hậu hữu thì không có quả báo khổ vui của thế gian’ (6).
Sáng làm cho sạch nghiệp. Nhưng sáng đó từ đâu mà đến? Đột nhiên mà 
đến hay phải qua một quá trình tu chứng? Cả quyển kinh nhấn mạnh giới, 
thì đương nhiên bài kinh 12 không tách rời tuệ ra khỏi giới, tuệ với 
giới liên hệ qua lại mật thiết với nhau. Làm sạch thân, miệng, ý thì tâm
 trí mới sáng, tâm trí sáng thì thân, miệng, ý cũng nhờ đó mà sạch, càng
 sạch càng sáng, sáng thì sạch nghiệp. Bởi vậy, tu là tu bằng giới và tu
 bằng tuệ. Kinh Mười Thiện Nghiệp nói rõ: ‘Tu tập bằng giới thì có năng 
lực phát sinh tất cả lợi ích chân thật trong Phật pháp, đầy đủ chí 
nguyện vĩ đại’; tu tập bằng tuệ thì ‘hủy diệt được mọi thứ quan điểm sai
 lầm của sự phân biệt’ (7). Ý niệm phân biệt là ý niệm phải trừ khử, bởi
 vì đó là gốc của vọng kiến, của bóng tối trong tư tưởng. Phân biệt là 
phân biệt anh với tôi, chủ thể với đói tượng, cái nhìn với đóa hồng, 
chân như với sinh diệt, phiền não với niết bàn, vĩnh cữu với hư vô, hữu 
hạn với vô hạn, cố định với chuyển biến, có với không, nghĩa là tu tưởng
 nhị nguyên mà Phật giáo dứt khoát bác bỏ. Phân biệt thì không thấy được
 toàn thể, không thấy được bản chất của sự vật, không thấy được ‘không’,
 không sáng. Làm sạch thân, miệng, ý là con đường dẫn đến cái sáng. Đó 
là cái sáng trong vắt, xuyên suốt thời gian, xuyên suốt không gian, cái 
sáng phi thường mà phải đọc kỷ câu kinh để thấy choáng ngợp: ‘Từ vô thỉ 
đến giờ, vũ trụ có gì, dầu chưa manh nha, cũng biết, thấy và nghe cả.’ 
Đó là cái sáng của tuệ giác, cái sáng của Phật. Chắc tôi không bao giờ 
có được cái sáng đó. Nhưng tôi có thể chắc chắn một điều là tôi đã bắt 
đầu ‘hiểu’ được cái sáng đó, và nếu tâm tôi càng gần Phật thì cái hiểu 
sẽ đưa tôi đến cái ‘thấy’ lúc nào không hay. Đại thừa phát triển cao độ 
sự khác nhau giữa biết và thấy. Sáng, là biết và thấy. Cả hai sự việc 
phải xảy ra cùng một lần. Bởi vì khi cả hai xảy ra cùng một lần thì chủ 
thể và đối tượng mới không còn là hai nữa: chúng nhập với nhau làm một, 
hết phân biệt. Phật nói với ông Ma La Ca: ‘Thấy là thấy, nghe là nghe, 
hay là hay, biết là biết...’ (8). Nghĩa là gì? Nghĩa là chân lý chỉ có 
thể thấy một cách trực tiếp. Thấy, là thấy trực tiếp, tự bản thân, bằng 
kinh nghiệm. Biết, nhiều khi là biết qua trung gian. Thấy, thì không có 
khoảng cách gì nữa giữa cái thấy và cái được thấy. Thấy như vậy thì mới 
có cái thấy bừng sáng. Thấy như vậy là tuệ giác. Đó là cái thấy nói 
trong bài kinh 13 và 14:
‘Phải hết cả dơ bẩn của tâm trí thì biết xuất xứ của nghiệp thức, biết sống chết về đâu, biết thế giới chư Phật ở đâu.’ (bài 13). Phật nói: ‘Học
 đạo thì như cầm đuốc vào trong nhà tối, tối hết mà sáng còn; học đạo mà
 thấy thánh đế thì ngu si diệt hết, được sự thấy toàn thể.’ (bài 14). Chỉ vài câu thôi, ba bài kinh 12, 13 và 14 đã động đến những lý thuyết rắc rối nhất trong tư tưởng đại thừa.
Bây giờ tôi đọc vài bài kinh khác có liên quan đến tư tưởng đại thừa. Những đề tài nầy đơn giản hơn.
Trước hết chúng ta hãy tượng tượng đoàn thể tăng già quây quần chung 
quanh Phật lúc Phật còn tại thế. Phật là vô thượng. Chung quanh Phật là 
các đệ tử, A la hán, trí thức bậc nhất, thần thông bậc nhất. Nhưng Phật 
không phải chỉ xây dựng một đoàn thể tăng già. Phật còn hóa độ cho mọi 
tầng lớp người, nghĩa là Phật còn xây dựng một nền móng cư sĩ. Nếu tăng 
già ở trong tu viện tượng trưng cho chiều hướng trí thức, ‘qúy tộc’ của 
đạo Phật, thì quần chúng ở bên ngoài tượng trưng cho chiều hướng ‘dân 
chủ’, ‘xã hội’. Một bên thì ngồi đơn độc, thám hiểm tâm linh của chính 
mình, đi sâu vào bên trong để tìm giải thoát. Một bên thì trãi rộng tâm 
từ ra khắp chúng sinh, sau khi đã có con mắt tuệ, để đüa ai nấy qua bờ 
bên kia. Ở đây, ai cũng biết lý tưởng bồ tát của đại thừa khác với lý 
tưởng A la hán của tiểu thừa như thế nào rồi, nên tôi khỏi nói thêm. Chỉ
 nhắc đến chiều hướng xã hội của đại thừa. Đi vào xã hội, tất nhiên phải
 npói đến gia đình, phải nói đến chính trị, dù chỉ một chút xíu thôi. 
Chút xíu đó được nói phớt qua, nhưng tôi nghĩ là quan trọng lắm, trong 
bài 36. Xin đọc:
‘Phật nói, thoát đường ác mà được làm người là khó, được làm người
 mà làm đàn ông là khó, làm đàn ông mà đủ giác quan là khó, đủ giác quan
 mà sinh xứ trung tâm là khó, sinh xứ trung tâm mà được thờ Phật pháp là
 khó, được thờ Phật pháp mà gặp quân vương đạo đức là khó, gặp quân 
vương đạo đức mà sống trong gia đình bồ tát là khó, sống trong gia đình 
bồ tát mà tín ngưỡng tam bảo gặp nhằm đời Phật là khó.’
Gia đình tốt thì đạo Phật thịnh. Quân vương biết đạo đức thì nước 
sạch sẽ văn hóa. Đạo Phật không tách rời xã hội. Trong hai buổi công phu
 sáng chiều, các chùa ở Việt Nam vang dội bốn câu hồi hướng như thế nầy:
Lại càng nguyện ước
Quốc gia yên ổn
Chinh chiến tiêu tan
Mưa gió thuận hòa
Dân chúng an lạc
Trong bốn ân của Phật tử, ân đối với quốc gia là một. Phật tử chúng 
tôi không muốn gì hơn là được mãi mãi mang ơn các vị quân vương biết đạo
 đức. Bởi vì sao? Bởi vì các vị như vậy là bồ tát của chúng tôi.
Bài kinh thứ 9 nhấn mạnh một đề tài khác, vốn là đặc điểm lớn của đại
 thừa. Không người Việt Nam nào không cảm được cái đẹp của một ngày đẹp 
nhất trong năm: ngày Vu Lan. Bởi vì ai cũng có mẹ, và trước khi thành 
Phật thì phải được mẹ sinh ra. Chưa bài kinh nào đề cao chữ hiếu thiết 
tha đến thế, Hòa Thượng Trí Quang nói như vậy. Tôi chỉ đọc, khỏi minh 
họa gì thêm:
‘Phật nói, đãi cơm một trăm ngươi thường không bằng một người tốt.
 Đãi cơm một ngàn người tốt không bằng một người giữ năm giới. Đãi cơm 
một vạn người giữ năm giới không bằng một vị Tu đà hàm. Hiến cơm ngàn 
vạn Tu đà hàm không bằng một vị A na hàm. Hiến cơm một ức A na hàm không
 bằng một vi A la hán. Hiến cơm mười ức A la hán không bằng một vị Bích 
chi Phật. Hiến cơm trăm ức bích chi Phật không bằng đem giáo huấn của 
Tam bảo mà hóa độ song thân một đời. Hóa độ song thân ngàn ức đời không 
bằng hiến cơm một người học tập theo Phật, nguyện được như Phật để cứu 
vớt chúng sinh. Hiến cơm người như vậy thì phước sâu dày nhất. Còn phụng
 thờ trời đãt quỉ thần thì không bằng hiếu thảo cha mẹ; cha mẹ là thần 
linh bậc nhất.’
Đề tài cuối cùng có liên quan đến ảnh hưởng đại thừa là đề tài mà tôi
 đã nói quá nhiều ở phần đầu, nghĩa là đề tài chung của việc tu tập, 
không phân biệt tiểu thừa hay đại thừa. Tu tập thì gặp nhiều ma. Mà con 
ma ác hại nhất không ai khác hơn là con ma phăm, con ma đàn bà. Ma ơi, 
ta với ngươi như cỏ với lửa, lửa đến thì phải lẹ lẹ tránh xa! (bài 28). 
Đàn bà là thử thách lớn nhất của người tu hành. Phật nói: ái dục không 
gì hơn sắc đẽp. Sắc đẽp tạo ra ái dục thì không gì lớn bằng. Lớn đến nổi
 Phật phải nói đến mức nầy: ‘Nhờ chỉ có một cái như vậy, giả sử có cái thứ hai thì thiên hạ không còn ai hành đạo được nữa’ (bài 22).
Muốn đánh bạt nữ sắc, phương pháp của người tu hành là quán. Nhan sắc
 kia thực chất chỉ là một túi da chứa đầy đồ dơ bẩn (bài 24). Nhưng đàn 
bà cứ lượn qua lượn lại trong khi người hành đạo phải đi vào xã hội thì 
sao! Hãy như thế nầy để gần bùn mà thơm:
‘Phật bảo các vị sa môn, thận trọng, đụng nhìn phụ nữ. Phải nhìn 
thì thận trọng đừng nói chuyện. Phải nói chuyện thì sắc lịnh cho tâm trí
 đi theo nẻo chánh, rằng ta là sa môn, ở trong cuộc đời dơ bẩn nầy ta 
phải như đóa sen không dính bùn lầy. Già thì coi như mẹ, lớn thì coi như
 chị, trẻ thì coi như em, nhỏ thì coi như con. Cẩn trọng mà giữ uy nghi,
 ý thức càng phải đúng thánh đế’ (bài 27).
III. Ngôn ngữ Thiền trong bản kinh sau:
Bản kinh được lưu hành cho đến gần đây là bản mà Hòa Thượng Trí Quang
 cho là ra đời vào khoảng nhà Tóng, nghĩa là giai đoạn hoàng kim của 
thiền ở Trung Quốc. So sánh bản kinh nầy với bản kinh khi nãy, điểm rõ 
rệt nhất là ngôn ngữ thiền được thêm thắt vào quyển kinh. Hòa Thượng Trí
 Quang chê là hoa gấm thiền làm hỏng cái duyên mộc mạc của bản kinh. 
Giống như cô gái quê của Nguyễn Bính, đi tỉnh về hôm qua, chẳng thấy 
thêm gì, chỉ thấy ‘hương đồng gió nội bay đi ít nhiều’. Chỉ đọc là đủ 
thấy. Bài 1: ‘Phật nói, từ biệt cha mẹ, thoát ly gia đình, thể nhận 
tự tâm, thấu suốt bản thể, hội nhập vô vi, nên gọi là sa môn. Thường giữ
 250 giới, động và tĩnh đýu thanh tịnh...’
Bài 2 chải chuốt hơn nữa: ‘Phật nói, đã xuất gia làm sa môn thì 
dứt bỏ ái dục, thể nhận nguồn gốc của tâm, thấu suốt lý sâu của Phật, 
hội nhập vô vi, trong không thủ đắc, ngoài không mong cầu, tâm trí không
 ràng buộc vào đạo, cũng không kết thắc vào nghiệp, không tư tưởng, 
không thi vị, phi tu hành, phi chứng đắc, không trãi qua mọi cấp độ mà 
vẫn tôn cao, như thế gọi là đạo.’
Bài nầy đüa ý niệm ‘không’ vào hành trang của người đi tu, nhưng nếu 
quyển kinh có mục đích rất nhất quán là nhắc nhủ giới cho người mới lên 
đường thì những câu ‘tâm trí không ràng buộc vào đạo, phi tu hành, phi 
chứng đắc v.v...’ có vẽ như đặt không đúng chỗ.
Cũng y hệt như câu nầy trong bài 11, nghe có vẽ thông thái, nhưng chẳng có ý nghĩa gì:
‘Hiến cơm trăm ức Bích chi Phật không bằng một đùc Phật thuộc thì 
gian. Hiến cơm ngàn ức đùc Phật thuộc thì gian không bằng một bậc không 
nhớ không ở không tu không chứng.’
Lại cũng y như bài 18, ý tứ không có gì thêm:
‘Phật nói, đạo của Như Lai nhớ là không nhớ mà nhớ, làm là không 
làm mà làm, nói là không nói mà nói, tu là không tu mà tu. Thể hội thì 
gần lắm, mê mờ thì xa vời! Ngôn ngữ chấm dứt ở đây. Ở đây khái niệm 
không thể hạn cuộc. Sai trong tơ tóc thì mất trong phút chốc.’
Còn một ít chi tiết như thế nữa, nhưng tôi không có thì giờ nói thêm. Xin kết luận như thế nầy:
1. Phân biệt tiểu thừa, đại thừa như tôi vừa làm trên đây là để nói 
cho có chuyện nói, trong một chiều chủ nhật. Đại thừa là sự phát triển 
phong phú cần thiệt của một giáo lý đày sức sống, nhưng phát triển mà 
không rời gốc. Bởi vậy, đi về lại gốc thì chẳng còn tiểu thừa đại thừa 
gì nữa. Chứ giới nói trong kinh nầy không có con số: 100, 250, 300...Cho
 nên không có gì để chia cách. Đây là những chuyện hiển nhiên mà sa môn 
nào cũng phải nằm lòng.
2. Giới không phải là giáo điều. Giữ giới không phải vì sợ phạm giáo điều. Giữ giới vì hai lẽ: vì thấy và vì vui.
 Thấy rằng không giữ giới thì chỉ đi lui. Mà đã đi tu thì chỉ có thể 
bước tới. Đã thấy như vậy, thì chẳng có Phật nào bắt buộc cả, chỉ có 
mình căn dặn mình. Bởi vậy, giới không rời khỏi tuệ. Thấy, rồi vui. Giữ 
giới mà khổ sở quá thì thà rằng đừng giữ giới. Giữ giới mà vui, cái vui 
ngược với cái vui thường tình của thiên hạ, như bình bát của Phật trôi 
ngược giòng nước, thì sự giữ giới đó mới bền vững. Khi đó thì giữ giới 
mà không như giữ giới. Khi đó thì đi đùng gì cũng thiền.
3. Nhưng, xin bái lạy quý vị ‘thiền sư’ và ‘thiền sinh’ tân tiến hiện
 nay: nếu quý vị chưa tới mức đó thì thà rằng quý vị cứ bắt chước Lục 
Vân Tiên khoát tay lia lịa:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Giữa Lục Vân Tiên và vị sa môn của Kinh 42 Bài, khác nhau là ở chỗ 
đó. Tôi có thể tưởng tượng Kiều Nguyệt Nga vén rèm bước ra, mĩm cười thỏ
 thẻ với Lục Vân Tiên: ‘chàng ơi, chàng biết không, Kinh Hạnh Phúc đâu 
có dạy bịt mắt bắt dê, mà dạy như thế nầy:
Tiếp xúc với thế gian
Giữ lòng cho ngay thẳng
Muốn nói câu kinh đó là tiểu thừa, đại thừa hay thiền gì cũng được.