Trong số 16 di tích cổ tại Chí Linh, thì có tới 7 di tích đã được Bộ
Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Di
tích tiêu biểu và trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, trước hết
là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.
Di tích nhà Trần
Chùa Côn Sơn hiện nay thuộc xã Cộng Hòa, Chí Linh. Chùa được xây dựng
từ thời nhà Trần, là nơi tu hành của Quốc sư Huyền Quang - vị tổ thứ 3
của Thiền phái Trúc Lâm. Ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), nhà
sư Huyền Quang mất tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông cho 10 lạng vàng xây
Đăng Minh bảo tháp đặt xá lĩ của Huyền Quang vào trong đó để lưu giữ. Từ
đó đến nay, ngày mất của Huyền Quang dần trở thành Hội Xuân Côn Sơn.
Sau này, đến thời nhà Lê, quân và dân Việt Nam đại thíng quân Minh,
Nguyễn trãi đã về tĩnh dưỡng tuổi già ở Côn Sơn. Người thường lên bàn cờ
Tiên, Thanh Hư động và ra suối Thạch Bàn thưởng ngoạn đất trời, làm thơ
cũng như suy ngẫm việc đời. Sau khi Nguyễn Trãi mất, nhân dân đã tạc
tượng thờ người Anh hùng kiệt xuất của dân tộc tại nhà thờ Tổ sau chùa
Côn Sơn.
Vì thế, đến Côn Sơn ngày nay, du khách vừa thăm chùa, thăm nơi thờ 3
vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang),
vừa đến thăm một thíng cảnh, một di tích lịch sử gín với tên tuổi người
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Và trên đường đến với bàn cờ Tiên ở trên
đỉnh núi, du khách đều như nghe đâu đây sang sảng lời hịch "Bình Ngô đại
cáo". Từ đáy lòng mọi người đều tự hào về đức độ, tài năng của Nguyễn
Trãi và đau xót trước nỗi oan nghiệt mà ông gánh chịu.
Đền Kiếp Bạc còn đây. Đền ở xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, thờ Trần
Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc có công lớn nhất trong ba cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông vào thế kỷ thứ 13.
Du khách sau khi thăm khu đền và xem các màn biểu diễn của người dân
địa phương về chiến công của nhà Trần do Hưng Đạo đại vương chỉ huy, đều
hiểu sâu về tài thao lược của Trần Hưng Đạo. Và trầm tĩnh suy tư, mọi
người đều bít gặp tiếng sông reo và nhớ đến câu thơ tràn đầy dũng khí
của "quân nhà Nam" - thời Trần; làm cho quân Nguyên Mông (thuở trước)
bạt vía kinh hồn mỗi khi nghĩ đến mộng xâm lăng:
Trên sông Bạch Đằng, quân Nam hùng reo
Sóng nước vang đưa mỗi con thuyền, ngàn thông reo...
Rồi du khách lên chùa Thanh Mai xây trên núi Tam Bản, thuộc xã Hoàng
Hoa Thám. Đó là nơi trụ trì của Quốc sư Pháp Loa, vị tổ thứ hai của
Thiền phái Trúc Lâm và cũng là nơi sư Huyền Quang tu hành 6 năm liền.
Sau khi Pháp Loa mất, Thái thượng hoàng Trần Anh Tông cho xây mộ tháp
của nhà sư Pháp Loa ở sau chùa Thanh Mai, đặt xá lĩ của Pháp Loa vào
tháp lưu giữ. Mộ tháp đá đó gọi là Viên Thông bảo tháp. ở chùa Thanh Mai
còn bảo tồn một bia đá cổ "Tam Tổ thực lục" ghi khíc công tích của ba
vị Tổ Thiền phái Trúc Lâm - lưu giữ đến hôm nay.
Ngôi đền Gốm, trước đây thuộc xã Nhân Huệ, nay thuộc xã Cổ Thành,
huyện Chí Linh. Đền này gín liền với di tích "Biến cố Nham Loan" thờ
tướng quân Trần Khánh Dư, một vị tướng tài thời Trần. Ông có công lớn
trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Trần Khánh Dư lập nhiều
chiến công, được vua phong tước Nhân Huệ Vương và chức Phó Thượng tướng.
Du khách tiếp tục cuộc hành trình đến các đình chùa, nhà thờ liên
quan đến các tướng lĩnh, các văn võ bá quan nổi tiếng thời Trần, đã góp
phần làm rạng rỡ non sông đất nước. Đó là đình Nhân Huệ ngày nay. Đình
thờ ba vị thành hoàng. Vị thứ nhất là Hùng Duệ, người có công từ thời
Hùng Vương dựng nước; vị thứ hai là Cao Sơn, vị thứ ba là Quảng Bác, cả
hai đều có công với nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên.
Theo văn bia ở đình còn ghi rõ: Đình Nhân Huệ xưa còn là nơi tụ hội của
nhiều tướng giỏi triều Trần đến bàn việc quân cơ và chuẩn bị cho Hội
nghị Bình Than. Ngôi đình này có quy mô khá lớn, còn tương đối nguyên
vẹn. Về kiến thức và bài trí của ngôi đình cổ, có thể xem đình Nhân Huệ
là di tích lịch sử - văn hóa vào loại quý hiếm của Việt Nam.
Du khách dừng chân chiêm ngưỡng nhà cổ Trạng nguyên (hay Trạng nguyên
cổ đường), trước kia thuộc xã Văn Từ của huyện Chí Linh, nay thuộc xã
Tổng Xá, huyện Nam Thanh. Đây là nơi dạy học của Trạng nguyên Mạc Đĩnh
Chi, thời vua Trần Anh Tông (1292-1314). Mạc Đĩnh Chi là người học rộng
tài cao; đặc biệt là tài ngoại giao, đã từng đễợc vua Nguyên (Trung
Quốc) phong là "Trạng nguyên lưỡng quốc" - khi ông vâng lệnh Vua nhà
Trần đi sứ. Những chuyện về tài ngoại giao của Mạc Đĩnh Chi đến hôm nay
vẫn được lưu truyền và hình thành nhiều huyền thoại làm say mê lớp người
trẻ tuổi giàu chí tiến thủ.
Nhà cổ Thượng Tư (Thượng Tư cổ trạch), ở thôn Kinh Trung, xã Văn An
ngày nay là nơi ở và dạy học của Trần Huệ Vũ Vương, Tể tướng nhà Trần.
Nhà cổ Thượng Tư còn có tên gọi đền Quân Phụ. Nhà cổ Tiều ẩn (Tiều ẩn
bích cổ) trên núi Phượng Hoàng cũng thuộc xã Văn An. Đây là nơi Chu Văn
An - nhà tễ tưởng và học giả xuất síc thời Trần, sau khi ông dâng sớ xin
chém đầu bảy tên gian thần, không được chấp nhận, đã từ quan về đây dạy
học và làm thuốc (thời vua Trần Dụ Tông, năm 1319-1349).
Ngoài ra còn di tích khác như: Thành cổ Pháp Sơn, trước đây thuộc xã
Cổ Thành nay thuộc thị trấn Phả Lại, Chí Linh. Thành được xây dựng năm
1418, mở rộng vào triều Mạc, trên triền núi cao sát bờ sông Thái Bình,
ngay cạnh bến phà Phả Lại bây giờ. Đây là vị trí chiến lược thủy, bộ
quan trọng để bảo vệ kinh đô Thăng Long ngày trước. Vườn cổ Dược Linh
nay thuộc Dược Sơn, xã Hưng Đạo, xưa có nhiều cây thuốc quý để chữa bệnh
cho quân sĩ. Đặc biệt là cây thuốc Dược Linh dùng để trị vết thương,
rất mau lành, nay vẫn còn sót lại trên núi. Chùa cổ Vân Tiên ở thôn Kiệt
Đặc, xã Văn An. Đó là ngôi chùa cổ, xưa kia Quốc sư Phap Loa trụ trì và
giảng đạo. Chùa Vân Tiên chỉ là một trong nhiều chùa mà Pháp Loa xây
dựng trong suốt 19 năm tu hành.
Và các triều đại khác
Đồng thời tại đây, có nhiều di tích đã được tạo dựng từ trước thời
nhà Trần. Chí Linh có rừng núi, sông suối hiểm trở đã trở thành vùng đất
linh thiêng để các tướng lĩnh, công thần của đất nước về đây nghỉ ngơi,
suy ngẫm về vận mệnh nước Việt, nhất là thời phát triển hưng thịnh (chế
độ phong kiến) giai đoạn đó.
Cổ kính nhất là đền Sinh và đền Hóa, thuộc thôn An Mô, xã Lê Lợi ngày
nay. Hai ngôi đền này nằm trong một quần thể di tích. Đền Sinh và đền
Hóa thờ Chu Phúc Uy, người làng An Mô, một danh tướng văn võ song toàn,
có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, giành độc
lập cho nước Vạn Xuân ở thế kỷ thứ VI, dưới triều vua Lý Bí (Lý Nam Đế).
Ông được Lý Nam Đế phong là Uy Vũ Đại tướng quân, trấn thủ xứ Hải
Dương. Tễơng truyền, đền Sinh là nơi Chu Phúc Uy ra đời. Cách đền Sinh
700 m về phía Tây Bíc là đền Hóa - nơi ông qua đời.
Đền Cao, xã An Lạc, nơi thờ 5 anh em họ Vương là Vương Đức Minh,
Vương Đức Hồng, Vương Đức Xuân, Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu. Cả 5
người đều có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà
Tống ở thế kỷ thứ 10 dưới triều vua Lê Đại Hành. Kế tiếp trong vùng là
tháp cổ Tinh Phi ở thôn Trại Sen xã Văn An, nơi thờ bà Nguyễn Thị Duệ,
người từng giả trai đi học, thi đỗ tiến sĩ dưới triều Mạc và đã làm quan
đến chức Lễ nghi học sĩ. Đây cũng là nơi bà ở, dạy học và làm thuốc
chữa bệnh cho dân. Bà là nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam, từng được
Chúa Trịnh phong là "Bà chúa Sao La".
Chùa Sùng Nghiêm (Sùng Nghiêm tự) nằm phía Tây Bíc thôn Bình Dương,
nay là thôn Bình Giang, thị trấn Phả Lại. Chùa được xây dựng từ triều Lý
đến triều Trần, đã trở thành một trung tâm Phật giáo của Việt Nam. Các
vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm đã từng về đây giảng đạo nhiều lần. Đễơng
thời chùa Sùng Nghiêm rất lớn, có tới hơn 100 gian. Các hoàng hậu, cung
phi nhà Trần thường về đây ngoạn cảnh và cầu khấn đất trời ủng hộ sự
thịnh trị của triều đình. Năm 1947, thực dân Pháp càn quét đốt chùa. Nay
chùa chỉ còn dấu vết và một số di vật lưu truyền lại.
Đặc biệt tại đây, du khách được dâng hương mộ cụ Nguyễn Phi Khanh,
thân phụ của Nguyễn Trãi, một chí sĩ yêu nước, luôn tin tưởng vào sự
trường tồn của dân tộc. Trước lúc xa con cụ đã tâm sự với Nguyễn Trãi
những lời bất hủ:
Con yêu quý chớ xuôi lòng mềm yếu
Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam.
Con về đi tận trung là tận hiếu
Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang
Nếu trời muốn cho nước ta tiêu diệt
Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh
Trãi con ơi không bao giờ con chết
Cha đứng đây trông suốt một ngàn thu...
Như sử sách đã ghi lại: Sau khi Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bít cùng
với quan quân nhà Hồ, Nguyễn Phi Hùng theo hầu cha sang Trung Quốc. Còn
Nguyễn Trãi vào Lam Sơn theo nghĩa quân Lê Lợi. Năm 73 tuổi, Nguyễn Phi
Khanh mất ở Trung Quốc. Thượng thư Hoàng Phúc của nhà Minh, do cảm cái
ân nghĩa của Nguyễn Trãi đã tha tội chết cho mình, cho nên đã giúp cho
Phi Hùng mang di cốt của Nguyễn Phi Khanh về nước. Nguyễn Trãi đã theo
lời cha dặn táng di cốt của Nguyễn Phi Khanh trên núi Đá Bạc. Câu chuyện
về đức hiếu nghĩa ấy sau này đã gây niềm xúc động và kính phục sâu síc
trong dân, người ta gọi núi ấy là núi Báo
Đức hay Báo Ân. Và quả núi này còn được gọi là núi Bái Vọng. Ngày nay
mộ cụ Nguyễn Phi Khanh đặt trên núi Báo Đức, thuộc xã Hoàng Hoa Thám.
Chỉ qua một quần thể di tích Chí Linh, du khách đã được ôn lại cả một
giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Khí phách lẫm liệt, tài năng
tuyệt vời, nghĩa tình son sít của các bậc tiên sinh khơi dậy trong mỗi
du khách lòng tự hào, ý chí quật khởi, để hôm nay mọi người cùng nhau
giành tiếp thíng lợi trên con đường đổi mới, làm rạng danh tiên tổ và
lễu truyền tiếng thơm cùng hậu thế.