Hai câu thơ Thiền gợi nhớ
đến một sự kiện thể thao lớn của các nước Đông Nam Á ( Seagame 22 ) .
Một Seagame lần đầu được tổ chức tại Việt Nam, một Việt Nam còn khó khăn
nhiều về mặt kinh tế, nhưng hào khí Phù Đỗng đã đưa Việt Nam đứng đàu
bảng sắp hạng với hơn 100 huy chương vàng,55 huy chương Bạc, 45 huy
chương Đồng . Chúng ta tự hỏi vì đâu có được những tấm huy chương cao
quý đó ? Câu trả lời theo tinh thần của Đạo Phật, là đất nước chúng ta
đã tổng hợp quy tụ được những nhân duyên tốt đẹp, để lập nên những kỳ
tích thể thao, khiến cho nhiều nước trên thế giới phải kinh ngạc thán
phục . Nhân duyên chính cho niềm tự hào dân tộc đó là sự dẫn dắt lèo lái
tài tình, liên kết nhân tâm của chư vị lãnh đạo từ trung ương đến địa
phương. Không biết bao nhiêu mồ hôi, sự khổ luyện, hao tổn tinh thần vì
vận dụng chất xám quá mức, và có cả máu nữa...chính vì chịu đựng một
phen xương lạnh buốt của chư vị lãnh đạo,cũng như của các vận động viên
mà hàng triệu triệu người con dân việt cảm thấy tự hào mình là người
Việt Nam,được ngắm nhìn hít thở hương sắc của hoa mai, sung sướng cùng
cực khi mình hơn điểm thi đấu với đội bạn. Đau khổ,nghẹt thở, bàng hoàng
khi cầu thủ của mình chểnh mảng một chút, để trái bóng thản nhiên trôi
lăn từ cầu môn này qua cầu môn kia như trôi trong giấc mộng.
Từ niềm vui hiện tại, nhớ lại công ơn của tiền nhân biết nhường nào !
Tấm lòng,mồ hôi , nước mắt, và cả máu nữa của các vị đã mở mang bờ cõi,
đã vun bồi tô điểm để cho ngày hôm nay con cháu có được một nền văn hoá
văn minh tự hào với bè bạn năm châu . Chính nhờ sự hy sinh và xả thân
cho đại nghĩa của chư vị tiền bối, ( trong đó có cả các tăng ni phật tử )
nên tổ quốc chúng ta mới có được di sản tầm cở thế giới như quần thể
kiến trúc cố đô Huế, phố cổ Hội An , các di sản vừa nêu sự đóng góp của
các ngôi chùa cổ không phải là nhỏ
Kính bạch Chư Tôn Đức
Kính thưa quý vị…
Vừa mới vào đề chúng con ( chúng tôi ) có hơi lạc đề một chút , nhưng vì
cảm xúc của một sự kiện to lớn của đất nước vừa mới trôi qua, còn nóng
hổi trong tâm tưởng, nên mới có sự liên tưởng như vậy .
Mùa xuân tuy chưa đến nhưng đang tiềm ẩn thấp thoáng trên ngàn cây nội
cỏ, dường như hương xuân thanh khiết đang dào dạt quanh đây, như đang
hoà nhập vào lòng của tất cả những người con Phật. Tất cả chúng con dâng
trọn niềm tin lên Tam Bảo, cầu nguyện cho một Phật sự quan trọng vừa
được khởi đầu: Lễ đặt đá đại trùng tu Chùa Bửu Minh.
Trong khung cảnh trang nghiêm, thanh tịnh, dạt dào cảm xúc. Thay mặt
toàn thể Phật tử chùa Bửu Minh chúng con thành kính đảnh lễ Chư Tôn Hoà
Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni đã hoan hỷ quang lâm chứng minh lễ
đặt đá hôm nay. Một mong ước rất nhiều năm của Phật tử Bửu Minh chúng
con, đến hôm nay mới khởi đầu thực hiện.
Cũng trong giờ phút hân hoan này, chúng tôi vui mừng chào đón quý vị đại
biểu, đại diện Đảng, Chính quyền, Mặt Trận, Ban Tôn Giáo & Dân Tộc,
trong tình cảm Đạo Pháp Dân Tộc đã dành thì giờ quý báu đến tham dự lễ
đặt đá. Sự hiện diện của quý vị nói lên chính sách thân dân vì dân của
Đảng và đó là một niềm vinh dự cho chùa Bửu Minh chúng tôi.
Và đặc biệt chúng tôi chào mừng các Ban Hộ Tự, các Chùa Tịnh Xá, quý
Phật tử gần xa, các nhà hảo tâm và toàn thể quý vị đáp lời mời của chúng
tôi về tham dự lễ, sự có mặt của quý vị trong buổi lễ đặt đá này đã thể
hiện tình cảm cao đẹp, nghĩa tình đồng đạo với nhau.
Kính Bạch...
Kính thưa...
Đức Phật là một con người từ bỏ danh vọng bạc tiền, quyền uy sắc đẹp đặc
biệt nhất của nhân loại. Từ bỏ ngôi vị Thái tử cao sang tôn quý, đầy
quyền uy để dấn thân tìm đạo giải thoát. Sáu năm tu khổ hạnh trong rừng
sâu, chứng đạo dưới cội cây Bồ Đề, và nhập diệt cũng trong rừng cây Ta
La. Ngài đã từ bỏ lầu vàng gác ngọc tìm về và sống với thiên nhiên. Ban
đầụ Ngài không hề nghĩ đến phải cất một ngôi chùa hay một Tịnh Xá, Ngài
chỉ giảng và dạy đạo cho đệ tử trong những cánh rừng cây hoặc bên những
thảm cỏ xanh rộng ven bờ suối. Nhưng rồi về sau đệ tử tìm đến Ngài tu
học mỗi ngày một đông, nhu yếu tu học của Phật tử đã khiến cho Trưởng
giả Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà phát tâm dâng cúng đất và rừng cây, Tịnh
xá Kỳ Hoàn hình thành là do công đức lớn lao của hai vị đại thí chủ đó.
Trước đó Tịnh xá Trúc Lâm cũng đã được xây dựng lên cho Đức Phật giảng
dạy đồ chúng, đó là ngôi chùa đầu tiên trong lịch sử của Đạo Phật.
Từ Tịnh Xá Trúc Lâm các ngôi Tịnh Xá khác cũng lần lượt hình thành tôn
tạo, quanh lưu vực sông Hằng như Kỳ Hoàn, Trùng Các giảng đường... từ
tấm lòng của những người Phật tử tín mộ Phật. Và theo chân các nhà
truyền giáo đạo Phật đã vượt biên cương Ấn Độ truyền đến các châu lục và
những ngôi chùa từ đấy đã được xây cất lên cho từng nước với những kiểu
dáng khác nhau. Ngôi chùa đầu tiên xây cất trên đất nước chúng ta là
chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh vào thế kỷ thứ nhất của công nguyên. Hai mươi
thế kỷ sống chung cùng dân tộc, đạo Phật và dân tộc như nước với sữa.
Dòng sinh mệnh của đạo phật chính là dòng sinh mệnh của dân tộc. Khi nào
đất nước thịnh đạo Phật thịnh, khi nào đất nước suy đạo Phật cũng suy
theo.
Tiểu sử chùa Bửu Minh gắn liền với lịch sử hình thành Xí nghiệp chè Biển
Hồ. Chùa Bửu Minh hiện nay là hậu thân của ngôi chùa có tên là Phật
Học. Khởi thủy ở xóm Cỏ May, cách ngôi chùa hiện nay khoảng 1 km, về
hướng Tây Nam, cạnh bờ đập thủy lợi, cầu treo hiện nay.
Phật giáo có mặt ở Tây Nguyên nói chung, hai tỉnh Gia Lai - Kon Tum nói
riêng, là do chư tăng và các vị cư sĩ thuần thành mộ đạo người Kinh mang
từ miền xuôi lên. Cụ thể là Bình Định, Quảng Ngãi, Thừa Thiên-Huế,
Quảng Trị... Vì chùa Phật Học có liên quan đến chùa Bác Ái - Kon Tum.
Nhân đây cũng xin nhắc lại, cụ Võ Chuẩn, huấn đạo Kon Tum là một phật tử
người Thừa Thiên, xin phép Tòa khâm xứ Trung kỳ tổ chức lễ kỳ siêu bạt
độ cho đồng bào chết vì nạn đói, và khai tự hiệu cho chùa Bác Ái (trước
đó gọi là Âm Linh miếu). Đó là vào năm 1931 (Tân Mùi ) niên hiệu Bảo Đại
thứ 6. Ngài Từ Vân ở Bình Định (thường gọi là Tăng Cang Lê Tế), Trụ Trì
chùa Bác Ái từ năm 1933 đến năm 1944.
Thượng tọa Thích Đồng Trí, trụ trì chùa Bửu Minh từ năm1978 đến năm 1989
(trước năm 1975 là học tăng tu học tại chùa Bửu Minh, hiện nay là
Trưởng Ban trị sự phật giáo tỉnh Kon Tum). Thầy được đạo hữu Nguyễn văn
Tròn (là người hương đăng chăm sóc ngôi chùa Phật Học thời kỳ mới thành
lập) cho biết, ngôi chùa Phật Học là do Ngài Tăng Cang Lê Tế khai sơn.
Đồn điền trà Biển Hồ thường gọi là Sở trà do tư bản Pháp khẩn hoang
thành lập năm 1922, ông chủ đầu tiên là ông Ala Vena, ông chủ thứ hai là
ông Henri-De Guenivau. Năm 1930 Sở trà Biển Hồ có một ông Sếp (Chef)
tên là Nguyễn Văn Khanh người Huế. Gia đình ông ở tại Kon Tum là một
Phật tử mộ đạo, nên ông đã đứng ra vận động thành lập Chùa Phật Học, để
cho công nhân Sở trà lễ bái tu tập. Ông Nguyễn Văn Khanh là người đại
diện cho một số Phật tử, mời ngài Tăng Cang Lê Tế từ chùa Bác Ái - Kon
Tum xuống Sở trà Biển Hồ chứng minh thành lập chùa Phật Học vào năm
1936.
Do chiến tranh, năm 1946 Nhà máy trà bị cháy, năm 1947 chùa Phật Học bị
sập, đến năm 1961 ông chủ Sở trà người Pháp là ông Henri-De Guenivau cho
đất cất chùa trở lại theo nguyện vọng của công nhân phật tử, toạ lạc
tại vị trí hiện nay, lần trùng tu này đặt tên chùa là Bửu Minh.
Từ lúc mới thành lập cho đến nay, trụ trì và tính cả các vị hương đăng
nữa gồm có bảy đời: Đạo hữu Nguyễn văn Tròn, Thầy Hai Đẩu, Thượng Tọa
Thích Từ Hương, Thầy Thích Thiện Tín, Thầy Thích Tịnh Viên, Thượng Tọa
Thích Đồng Trí, Thầy Giác Tâm.
Trước năm 1975 trong tỉnh Gia Lai chỉ có chùa Bửu Thắng là lớn, còn các
ngôi chùa khác chỉ xây dựng bằng những vật liệu tận dụng nhỏ gọn, đơn
giản, chưa có những ngôi già lam to lớn tiêu biểu. Nhưng đến sau năm
1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, với chính sách tôn trọng tự do tín
ngưỡng của Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền đã cho xây dựng và
trùng tu rất nhiều ngôi chùa quy mô với những đường nét kiến trúc đặc
thù tiêu biểu bản sắc dân tộc. Như chùa Bửu Long, Bửu Nghiêm, Long
Thiền, Quan Âm, Minh Thành, Tịnh Xá Ngọc Phúc, chùa Phước Minh v.v… và
hôm nay là Chùa Bửu Minh. Điều đó đã chứng minh được ý tưởng "đất nước
thịnh đạo Phật thịnh, đất nước suy đạo Phật suy theo".
Kính bạch...
Kính thưa...
Từ rất xa xưa, các mái chùa cổ kính đã góp phần tô điểm cho làng quê
Việt Nam. Cây đa bến nước, mái đình, mái chùa không tách rời trong tâm
trí kỷ niệm của mỗi người dân xa quê hương, nhớ tới nơi chôn nhau cắt
rốn, nhớ tới tổ tiên ông bà, họ hàng, làng xóm. Tiếng chuông chùa thu
không vang lên trong những buổi hoàng hôn đã đi vào nhịp sống thường
nhật của mỗi người dân. Đã có một thời kỳ dài trong lịch sử dân tộc,
Phật giáo là quốc giáo, dù sau này không còn giữ địa vị độc tôn nhưng
tinh thần từ bi bác ái của Phật giáo vẫn thấm sâu trong tâm hồn người
Việt. Lên chùa lễ Phật, vãng cảnh, không phải chỉ là việc làm của các
Phật tử mà là đông đảo các tầng lớp nhân dân và thật sự là một nét đẹp
trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc.
Việt Nam là một xã hội ở phương Đông, từ mấy chục thế kỷ nay dân tộc ta
đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Những yếu tố tích cực của Phật
giáo còn tồn tại lâu dài trong đời sống văn hoá dân tộc, là di sản văn
hoá dân tộc, đã có tác dụng không nhỏ đến việc thúc đẩy xã hội phát
triển.
Chúng ta không quan niệm một xã hội văn minh phát triển, chỉ có về mặt
vật chất kỹ thuật, về tổng sản lượng quốc dân, về mức thu nhập bình
quân... mà một xã hội phát triển văn minh cần phải phát triển cả về mặt
tinh thần với những giá trị nhân bản cao quý với cuộc sống văn hoá tốt
đẹp.
Cất chùa thờ Phật, lên chùa lễ Phật để hướng tới điều thiện là nhu cầu
của cõi tâm linh, hướng tới cái chân, cái thiện cũng còn là để hướng tới
cái mỹ, để cảm nhận vẻ đẹp của các ngôi chùa. Chùa Việt Nam nào cũng có
vẻ đẹp, mỗi chùa có một vẻ đẹp riêng, mỗi ngôi chùa gắn liền với lịch
sử xa xưa của một vùng, một làng xóm, ở đó những người sống trong chùa
và ngoài chùa đã bằng công sức mồ hôi và trí tuệ của mình, xây dựng nên
những giá trị tinh thần và vật chất của mỗi miền và của cả đất nước. Có
người đã góp phần tích cực vào việc xây dựng Nhà nước Đại Việt ngay từ
buổi đầu dựng nước như Thiền Sư Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh,
Huyền Quang... Nhiều người đã dốc cả cuộc đời vì cái thiện, là những tấm
gương về điều thiện cho dân chúng trong vùng noi theo. Đã có thời kỳ
trong hàng trăm năm, chùa là trường học, là nơi truyền bá cái thiện,
truyền bá văn hoá. Ngày nay ở vùng đồng bào Khơ Me Nam Bộ, chùa vẫn còn
là trường học cho thanh thiếu niên trong vùng, chùa và trường là một, đủ
cho thấy ý nghĩa văn hóa của ngôi chùa trong lịch sử dân tộc.
Kính bạch...
Kính thưa...
Chư Tổ Sư có dạy:
Phật pháp phát triển mở rộng là do công của Chư Tăng Ni hoằng hoá. Chùa
tháp trang nghiêm là nhờ tín tâm đóng góp của hàng Phật tử tại gia.
Thật vậy! Từ hàng ngàn năm nay những ngôi chùa từ Bắc chí Nam, (chỉ trừ
một số ít ngôi chùa lớn do các vị vua Phật tử xây cất) còn hầu hết hoặc
lớn hoặc nhỏ đều do bà con Phật tử đóng góp xây dựng nên, chính vì vậy
nên ngôi chùa là ngôi nhà chung, ai cũng thấy sung sướng hạnh phúc khi
được góp công sức của mình vào công trình tu bổ tôn tạo chùa. Đạo Phật
cực thịnh trong triều đại nhà Trần, dân chúng xuất gia làm Tăng cũng như
chùa chiền được xây dựng lên rất nhiều, khiến các tầng lớp trí thức nho
giáo đã công kích đạo Phật được viết trong một văn bia chùa Thiệu Phúc ở
Bắc Giang:
"Đạo Phật lấy phúc họa cảm động người ta mà sao được lòng người sâu xa
bền chặt đến thế? Trên từ vương công, dưới dến dân thường, hễ đối với
đạo Phật dâng hết của cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền cúng xây
dựng chùa tháp họ rất vui mừng, như cầm chắc được một biên lai trong tay
để ngày mai nhận tiền. Cho nên từ kinh thành đến hang cùng ngõ hẻm,
chẳng dụ mà theo, chẳng thề mà tin, không đe dọa mà sợ, hễ chỗ nào có
người ở là có chùa, đổ đi thì làm lại, hư thì sửa... Còn ta đọc sách
thánh hiền khá nhiều, khá rõ đạo lý để khai hoá thứ dân, mà chưa được
một người nghe theo ta. Nên ta rất hổ thẹn với bọn Phật đồ, vì hổ thẹn
nên ta nói lên lời này...”
Qua lời công kích nêu trên của nho sĩ Lê Quát chúng ta thấy được giáo lý
luân hồi nghiệp báo của đạo Phật đã ăn sâu vào tâm thức dân tộc Việt.
Dân tộc Việt Nam rất tin vào thuyết lành dữ báo ứng ở hiền gặp lành và
họ luôn nhận thức rằng: Thực hiện trăm điều phước đức không phước đức
nào lớn hơn là đúc chuông, tạo tượng Phật, xây chùa, và gắn bó với chính
quyền, đưa đất nước mỗi ngày mỗi phồn vinh phát triển
Kính bạch...
Kính thưa...
Chùa Bửu Minh, cũng như mọi hiện tượng khác trên cuộc đời, đã trải qua
thăng trầm cùng lịch sử, khởi thủy gỗ ngói đơn sơ, rồi chiến tranh bị
sập, lần trùng tu thứ nhất, Phật tử đi nhặt từng viên gạch bỏ ở Sở trà
Đăk Đoa về xây dựng, mới thấy được công lao của các bậc tiền bối và các
thế hệ đi trước. Thoắt một cái đã hơn bốn mươi năm, thế rồi chùa Bửu
Minh cũng đã hai lần sập mái, khiến cụ Vũ Gia Tham phó Ban Tôn Giáo
Trung ương có lần ghé thăm chùa đã phải ngậm ngùi thương cảm, gợi ý nên
trùng tu trở lại để cho khang trang hơn mà phục vụ nhu cầu tín ngưỡng
quần chúng.
Là một công dân tu sĩ sinh trưởng ở Làng Trại Mộ - Biển Hồ cách chùa Bửu
Minh non cây số, lớn lên đi tu tại chùa Bửu Minh, nên chúng con cảm
thấy mình có nợ với ngôi chùa làng và quê hương. Chùa Bửu Minh là nơi
gởi gắm niềm tin vào chân lý đầu tiên, xóm Trại Mộ nơi đã sinh ra và cưu
mang mình. Bẩm thụ khí chất không khoẻ từ hồi còn thơ ấu, nên chưa già
mà đau yếu quanh năm, biết vậy nhưng chúng con vẫn luôn cố gắng hết sức
mình để giữ gìn tô bồi cho ngôi chùa suốt hai mươi mấy năm qua, có giai
đoạn tưởng chừng như không thể duy trì nổi.
Đặt đá xây dựng lại chùa lần này, đối với chúng con thật quá sức. Nhưng
Phật sự việc gì đáng làm phải làm. Xây dựng chùa tháp cũng khó mà cũng
dễ. Dễ là đối với các vị cao tăng thạc đức, còn vô cừng khó là đối vđi
hàng hậu học đức mọn như chúng con. Chúng con rất lấy làm lo lắng cho
công trình trùng tu chùa, vì sau lễ đặt đá này là thi công. Vì đạo pháp
vì quê hương chúng con, chúng tôi ngưỡng mong Chư Tôn Đức Hòa Thượng,
Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni, các cấp chính quyền, các nhà hảo tâm, cùng
toàn thể Phật tử xa gần hết lòng yểm trợ chúng con, chúng tôi về mặt
tinh thần cũng như vật chất, và tạo mọi sự thuận duyên cho chùa Bửu Minh
sớm hoàn thành công trình trùng tu ngôi chánh điện như tâm nguyện ước
ao.
Một lần nữa, chúng con xin tâm thành cảm niệm ân của Chư Tôn Đức Tăng Ni
đã đến hộ niệm cầu nguyện cho buổi lễ đặt đá quan trọng này. Chúng tôi
không quên ơn các cấp chính quyền vì sự gắn bó giữa đạo pháp và dân tộc
dành rất nhiều thì giờ quý báu để đến chia vui với toàn thể Phật tử chùa
Bửu Minh. Chúng tôi cũng hết lòng thâm tạ tình cảm của các nhà hảo tâm
các giới Phật tử xa gần loan tin mời giúp chúng tôi đến tham dự lễ đặt
đá, và ngay ngày hôm nay chư vị đã cúng dường hỗ trợ cho chúng tôi một
số tịnh tài vô cùng quý giá, để chúng tôi vững niềm tin mà tôn tạo ngôi
chánh điện, tôn thờ Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni chí tôn chí kính của nhân
loại chúng sanh.
NAM Mô CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
Trụ Trì Chùa Bửu Minh
Thích Giác Tâm