Lịch sử Phật Giáo ở thế 
giới phương Tây trở về giai đoạn trước kỷ nguyên  		Thiên Chúa. Đầu 
tiên, có những sự giao lưu và ảnh hưởng  tác động, điều  		này đã giúp 
Phật Giáo môt sự quan tâm đối với thế giới nơi mà đạo Cơ Đốc  		đã sinh 
và phát triển. Thứ hai, có những nhà Học giả nổi bật ở thế kỷ 19  		và 
20 đại diện cho Phật Giáo phương Tây xuyên qua các tác phẩm và dịch  		
phẩm về kinh văn Phật Giáo cùng với sự nghiên cứu của họ. Cuối cùng,  		
những sự trình bày xuyên tạc nào đó đối với Phật Giáo đã đeo đẳng trong 
 		đầu óc của những người phương Tây cần nên tháo gỡ và có một sự giải  
		thích tích cực về những gì mà Phât Giáo đã cống hiến về việc trình bày
  		thế giới hiện đại của chúng ta.
      		Đức Phật đã sống ở Ấn Độ vào thế
 kỷ thứ 6 B.C. Lịch sử buổi đầu và sự  		chạm trán giữa Đông và Tây đã 
xảy ra ở thế kỷ thứ tư B.C khi Alexander  		xâm lược nước Ấn. Ông ta 
không phải là một người lính bình thường. Như  		một môn đồ của 
Aristotle, ông ta thấu hiểu sâu sắc về những giá trị văn  		hóa, và 
trong cuộc viễn chinh đi cùng với một số lớn học giả và nghệ sĩ  		dành 
cho những trao đổi văn hóa. Nó là nguyên nhân đòi hỏi chính đáng,  		
rằng sự hiểu biết văn hóa Ấn Độ mà giới trí thức và nghệ sĩ Hy Lạp này  
		đã đem về cho quốc gia của họ bao gồm một số hiểu biết về Phật Giáo. 
Kết  		quả sự gặp gỡ giữa Đông và Tây, sự giao thiệp ngoại giao này đã 
được  		thiết lập và duy trì giữa những nhà cầm quyền Hy Lạp với cung 
điện  		Pataliputra, thủ đô Maurya Eprise.
      		Vào thế kỷ thứ 3 B.C, Đại đế 
Phật Tử Asoka của Ấn Độ có ba sắc lệnh của  		ông ( bia đá 2, 5 và 13) 
khắc vào đá và tiếp tục hiện còn, đã ghi lại  		sắc lệnh mà vua thành 
lập một nội các cho lãnh vực Tôn giáo ( gọi là  		Dharma-mahamatra) để 
truyền bá Phật Pháp đồng thời đẩy mạnh đời sống đạo  		đức và tôn giáo 
cho mọi người, và thế là ông ta đã gởi những “Sứ Giả  		Trung Thành” đến
 một vài lãnh thổ của Hy Lạp một cách thành công bao gồm  		nhiều quyền 
lực hiện có của ông. Ông ta tuyên dương những sứ giả mà ông  		ta gửi đi
 bằng tên Five Greek Kings ( Năm vị vua Hy Lạp). Họ đã được  		đồng nhất
 hóa như Antiochus 2 của nước Syria (261-246 B.C), Ptolemy 2  		của nước
 Ai Cập (285-247 B.C), Antigonas Gonatas của nước Macedonia  		(276-246 
B.C), Magas của nước Cyrene (300-258 B.C) và Alexander của nước  		
Epirus (272-258 B.C). Ở đó có thể là không có sự nghi ngờ chính đáng nào
  		về việc những sứ giả hoặc những nhà tryền giáo (duta) truyền bá sự 
hiểu  		biết về Đạo Phật vào lãnh thổ Hy Lạp, nơi mà đạo Do Thái thực sự
 đã có  		mặt.
      		Cách đây vài năm, một sắc lệnh 
của Asoka với hai ngôn ngữ: Greek và  		Aramaic đã được khám phá tại 
Afghanistan (điều hứng thú với dấu tích này  		là, Aramaic là ngôn ngữ 
Cơ Đốc). Sắc lệnh khác gần đây chỉ là ngôn ngữ  		Greek, hầu như chưa 
được công bố, đã được khám phá trong một vài quốc  		gia giống như trên.
 Chủ đề của những sắc lệnh này nhiều hay ít cũng  		giống như các sắc 
lệnh của Asoka về Dharma (Pháp- Dharmalipi) đã được  		phát hiện tại 
India. Bây giờ điều này được hiểu rằng hầu hết tất cả sắc  		lệnh Ấn Độ 
của Asoka đã được công bố trong tiếng Hy Lạp vì ưu tiên quyền  		lợi  
của người nói tiếng Hy Lạp.
      		Những câu hỏi của vua Milinda, 
bản kinh Phật Giáo nổi tiếng với ngôn ngữ  		Pali được viết khoảng chừng
 thế kỷ đầu tiên (A.C), ghi lại một cuộc đối  		thoại đối với những vấn 
đề học thuyết Phật Giáo quan trọng giữa một vị  		vua có tên là Milinda 
và vị Thánh Tăng Phật Giáo Nagasena. Vị vua này  		được xem như vua 
Manandros của Hy Lạp, người thống trị bao quát phía Bắc  		và Tây Ấn vào
 thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên.
      		Bộ Great Chronicle ( Biên niên 
sử) của Sri Lanka ( Mahavamsa), đã được  		viết vào khoảng thế kỷ thứ 5 
A.C, nhưng dựa trên những văn bản sớm hơn,  		cho rằng vào thế kỷ đầu 
tiên B.C một phái đoàn Tăng sĩ từ thành  phồ Hy  		Lạp của Alexanderia (
 Yona-nagara-Alasanda) được hướng dẫn bởi Vua  		Trưởng Lão Tăng Thống 
Dhamnarakhita, tham dự lễ nhậm chức của vua Stupa  		(Ruvanvali-saya) 
tại Anurdhapura ở Sri Lanka. Mặc dù việc này đề cập đến  		Alexandra tại
 Ai Cập hoặc Alexandria khác thì nó vẫn là một thành phố Ai  		Cập, nơi 
mà một đoàn thể Phật Giáo quan trọng đã tồn tại. “Sự khoan dung  		của 
Alexanderia ,(một trong số “ linh mục đầu tiên” nói) trong thập niên  		
cuối thế kỷ thứ 2 A.C, trong số người barbarians mà triết học bắt nguồn 
 		từ Hy Lạp lại là những người tin tưởng giáo lý Đức Phật”.
      		Nhiều sự tham khảo rải rác giống
 như sự trình bày này về việc tồn tại  		của Phật Giáo ở phương Tây 
trong giai đoạn đầu tiên ấy. Ở đây không cần  		nghi ngờ gì nữa về sự 
ảnh hưởng của Phật Giáo vào thế giới Hy Lạp vào  		buổi đầu Thiên Chúa. 
Chính những tu viện Cơ Đốc dường như đã chịu ảnh  		hưởng bởi những tu 
viện Phật Giáo. Những tu viện nổi tiếng là do những  		Phât Tử đầu tiên 
xây dựng và tổ chức tu viện Tăng Sĩ. Nhưng, điều kỳ lạ,  		không có tài 
liệu nào bàn đến Phật Giáo ở phương Tây vào những ngày đầu  		tiên đó 
được tìm thấy hôm nay. Môt trong những ngạc nhiên là chúng nó bị  		tiêu
 diệt bởi tự nhiên hay bị diệt vong bởi bàn tay nhỏ nhoi? Hay sự  		
cuồng tín Tôn giáo? Sự ảnh hưởng của Phật Giáo và Ấn Độ xuyên qua văn  	
	hóa phương Tây đặc biệt trong giai đoạn những thế kỷ hình thành Cơ Đốc 
 		giáo đã cung cấp cho những nghiên cứu sinh nghiêm chỉnh với nhiều chủ
 đề  		về sự khảo sát.
      		Sau sự yên lặng của nhiều thế 
kỷ, phương Tây bắt đầu nghe về Phật Giáo  		lần nữa, khoảng chừng thế kỷ
 16. Những người truyền giáo Cơ Đốc đến từ  		châu Âu và hướng Đông gởi 
về những bản báo cáo, điều mà có thể hiểu được  		đã là sự thành kiến và
 lừa dối, đầy ắp những dự đoán và thiếu hiểu biết.  		Nhưng những đóng 
góp thiết thực đã làm bởi một số người truyền đạo Cơ  		Đốc vào thế kỷ 
19 và đầu thế kỷ 20 thì không thể quên được.
      		Việc nghiên cứu đúng đắn về Phật
 Giáo ở Phương Tây vào buổi đầu thế kỷ  		19. Nếu như cho rằng những gì 
sau đó dường như không hơn một giọt nước,  		dồn tất cả những giá trị đó
 lại, thế giới phương Tây hôm nay mắc nợ tuệ  		giác mà nó có đối với 
Đức Phật và giáo lý của Ngài.
      		Sự đúc kết của thế kỷ thứ 19 đề 
xuất trong học thuyết phương tây về Phật  		Giáo phải bắt đầu với Triết 
gia Đức Schopenhauer (1788-1860), Người đã  		đánh thức sự hứng thú giữa
 những Triết gia phương Tây và những học giả  		xuyên qua việc tham khảo
 của ông ta về Phật Giáo, điều mà ông ta vô cùng  		say mê. Nhưng niềm 
tin với sự khởi đầu cho việc nghiên cứu có hệ thống  		và khoa học về 
Phật Giáo đáng kể là nhà Đông Phương học người Pháp  		Eugene Burnouf 
(1801-1852) với tác phẩm xuất bản năm 1826, cho ra công  		trình đầu 
tiên Essai Sur le Pali, kết hợp sự cọng tác với học giả người  		Đức 
Lassen.Trong số những công trình khác đáng được tuyên dương L’  		
Introduction d I’ Histoire du Bouddhisme Indien (1844). Và những tác  		
phẩm dịch thuật nổi tiếng về kinh điển Đại Thừa bằng tiếng Sanskrit gọi 
 		là Saddharma-Pundarika (1852). Trong số học trò xuất chúng của 
Burnouf  		là nhà nghiên cứu người Đức Max Miller. Ông ta đã xem Burnouf
 như người  		cha của ngành Phật Học phương Tây.
      		Công trình ban đầu bởi Bournouf 
đã được tiếp tục tại Paris qua những  		nghiên cứu và xuất bản về những 
kinh văn nguyên gốc và giải thích. Người  		làm việc cao nhất trong lãnh
 vực này là Sylvain Levi (1863-1935), ông ta  		khám phá xuất bản những 
bản kinh văn hiếm hoi của Phật Giáo Đại Thừa  		bằng tiếng Sanskrit với 
sự chuyển ngữ của ông ta.  Cũng như những lãnh  		vực mới về việc khảo 
sát Triết học và lịch sử Phật giáo. Truyền thống  		Pháp đã được thiết 
lập từ Burnouf và Levi hầu hết là thành công và tiếp  		tục cho đến hôm 
nay bởi sự kế thừa của những môn đệ siêu xuất: Paul  		Demieville, Louis
 Rebou, Jean Fillozat, Olivier Lacombe, Armand Minard,  		Andre Bareau 
và đến những người khác, dù một vài người không phải là nhà  		chuyên 
môn Phật Học.
      		Trong số học trò của Sylvain có 
một người Bỉ, nhân vật nổi tiếng Louis  		de La Vallee Poussin, bao gồm 
nhiều tác phẩm, sự chuyển dịch đánh dấu kỷ  		nguyên (1923-1931) về A Tỳ
 Đạt Ma Câu Xá Luận của Thế Thân Bồ Tát, đã  		được chọn lựa như bộ sách
 bách khoa, không chỉ thuộc về Nhất Thiết Hữu  		Bộ (Sarvastivada), mà 
còn là môn Triết học tổng hợp Phật Giáo. Truyền  		thống La Vallee 
Poussin tại Bỉ, tựu thể được xem xét như một phần học  		đường của Pháp,
 đã tiếp tục một cách siêu xuất đến hôm nay bằng người  		học trò kế 
thừa xứng đáng Etieme Lamotte với những đóng góp vĩ đại có  		giá trị và
 đã được trân quí một cách phổ biến.
      		Sự quan tâm đối với ngành Phật 
Học này bắt đầu ở Paris, dần dần truyền  		sang châu Âu. Tại Đan Mạch, 
Victor Fausboll phát hành một tác phẩm về  		kinh Pháp Cú, bản kinh Phật
 nổi tiếng vào năm 1855, kết hợp với một bản  		dịch và ghi chú bằng 
tiếng Latin. Đây là kinh PaLi đầu tiên được xuất  		bản, đầy đủ các ngôn
 ngữ châu Âu tại La Mã. Một Học giả người Đan Mạch  		khác là V. 
Trenchner, ông ta bắt đầu công trình với The Critical Pali  		Dictionary
 với một sự quyết tâm kinh khủng, vẫn trong công việc tái sản  		xuất. 
Cơ quan chủ yếu của nó là Thủ đô Đan Mạch. Helmer Smith, nhà  		nghiên 
cứu Pali trứ danh người Thụy Điển cũng đã dùng đến quyển Tự Điển  		này.
      		Tại Hòa Lan, H.Kern đã tái xuất 
bản và dịch nhiều kinh văn Phật bằng  		tiếng Sanskrit và sách khảo sát 
về Tôn Giáo Ấn của ông ta đã được xuất  		bản năm 1896, vẫn là sách 
nghiên cứu có ích cho những nghiên cứu sinh  		Phật Giáo. Truyền thống 
kế thừa của Hà Lan vẫn còn tiếp tục đến bây giờ  		bởi J.W.de Jong và 
những người khác.
      		Tại Đức, ngoài những đóng góp vĩ
 đại của Max Miffler, Hermann  		Oldenbergn, cả hai hoạt động tại Đức và
 Anh, đã phát hành toàn bộ Luật  		Tạng thành năm tập (1879-1883), cộng 
thêm sự xuất bản và chuyển ngữ tác  		phẩm Dipavamsa (1879). Newmann đã 
dịch nhiều tác phẩm kinh điển sang  		tiếng Đức. Sự phát hành và dịch 
thuật của Giger về Mahavamsa thì nổi  		tiếng, và cũng là công việc của 
H.Von Glasenapp. Sự truyền thừa của  		người Đức vẫn tiếp nối đến hôm 
nay bởi Waldschmidt, Bechert và nhiều  		người khác. Không biết Paul 
Dahlke có phải là nngười kế thừa tích cực  		với sự truyền thừa Phật 
Giáo tại đức và đã bị quên hay không? Nhà ông ta  		bây giờ là Buddhist 
Temple ( chùa Phật Giáo) tại Berlin. Tác phẩm của  		Wintermitz tại Tiệp
 Khắc đã có thể bao gồm taị các giảng đường Pháp.
      		Tại Ý, G. Tucci, với nhiều thập 
niên, vẫn chứng tỏ sự đóng góp quan  		trọng bằng việc xuất bản những 
kinh văn Sanskrit và Tibetan với sự dịch  		thuật và bên cạnh những 
nghiên cứu chính của ông ta.
      		Tại Nga, Vasilieff, Minayeff, 
Oldenburg và Stcherbatsky đã làm một sự  		phối hợp vĩ đại để đề xướng 
việc nghiên cứu có khoa học đối với Phật  		Giáo.Cuốn The Bibliotheca 
Buddhica Deries đã được tìm thấy bởi  		Oldenburgn vào năm 1897  đến bây
 giờ đã phát hành hơn ba mươi bộ.  		Buddhist Logic-tác phẩm vô giá của 
Stcherbatsky được phát hành nhiều đợt  		giống như thế. Vào năm 1960 một
 bản dịch tiếng Nga về Kinh Pháp Cú đã  		được xuất bản.
      		Tại Hoa Kỳ, tác phẩm Harvard 
Orientas Series đã được kế hoạch nhằm tạo  		nên sự hiểu biết  hỗ tương 
và thiện chí giữa Đông và Tây, vẫn còn phát  		hành một số lượng lớn từ 
sau thế kỷ 19. Trong những năm đó, tác phẩm  		Buddhism In Translation 
(1896) của Warren, Buddhist Legends (1921) của  		Burlingame và Buddha’s
 Teaching của Chalmers đã được quan tâm như những  		công trình với mục 
đích đóng góp cho việc phổ biến Phật Giáo tại phương  		Tây đáng được 
tuyên dương. Việc phát hành cuốn Thanh Tịnh Đạo, tác phẩm  		nổi tiếng 
của ngài Buddhaghosa (Phật Âm) đã được xuất bản nhiều lần về  		năm 
1950. Ngoài ra, một sự đóng góp có giá trị với những nghiên cứu Phật  		
Học bằng tiếng Sanskrit đã được soạn sau đó với Prof. Edgerton thuộc  		
trường Đại học Yale cùng với những tác phẩm khác của ông: Buddhist  		
Hybrid Sanskrit Dictionary, Reader and Grammar, phát hành năm 1953.
      		Ngoài ra, England đã thể hiện 
lại sự quan tâm cao nhất đối với Phật Giáo  		ở phương Tây vào năm 1964.
 Hai biến cố xảy ra đã có một sự ứng dụng và  		ảnh hưởng sâu sắc sau 
cùng đối với ngành nghiên cứu Phật học Pali tại  		châu Âu. Vào năm đó, 
Robert Childer rời Sri Lanka cùng với bạn ông ta  		T.W. Rhys Davids 
(1843-1922) về phương Tây, họ là thành phần công chức  		tại Sri Lanka 
và học tiếng Pali tại đó. Họ có ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp  		và tính 
siêu thoát của giáo pháp Đức Phật được cất giữ trong kinh văn  		Pali. 
Khi trở về Anh quốc Childers sửa chữa và xuất bản tác phẩm nổi  		tiếng 
của ông Dictionary of the Pali Language (1872-1875), nó vẫn là bản  		
nghiên cứu có giá trị đến bây giờ.
      		Sau tám năm ở Sri Lanka, Rhys 
quay trở về England vào năm 1872, và bắt  		đầu làm việc với những nhà 
Đông phương học khác tại châu Âu. Sự đóng lớn  		lao của ông ta thì 
phong phú và đa dạng đối với những nghiên cứu Phật  		Giáo Pali, đã là 
nền móng cho cơ sở Pali Text Society vào năm 1884. Mục  		đích của 
Society là thể hiện sự ứng dụng đối với những nghiên cứu sinh  		mà có 
sự dồi dào về kinh văn sớm nhất của Phật học. Với sự giúp đỡ và sự  		
cộng tác của vợ ông ta, một phụ nữ thông minh nổi bật và tài năng vô  		
cùng, sự đóng góp của bà ta chỉ là lần thứ hai với những gì mà chồng bà 
 		ta làm. Rhys Davids đã kế thừa trực tiếp với những đóng góp cho công 
 		trình Society này, với tài biết khai thác và kết hợp nhiều tài năng 
rải  		tác trong các quốc gia tại Đông và Tây.
      		Nó không thể trong một vài từ để
 làm hợp thức đối với công trình đồ sộ  		với kiệt tác Pali Text Society
 trong khoảng thời gian gần trên một trăm  		năm. Công trình vĩ đại này 
hầu hết đã tiếp tục đến ngày nay một cách  		thành công nhờ sinh lực của
 chính nó và sự tận tâm của vị chủ nhiệm hiện  		thời, cô I.B. Homer. 
Cám ơn society, bây giờ chúng ta có tất cả văn bản  		Pali tiêu biểu về 
kinh điển Phật Giáo tại La Mã-tipitaka (Tam tạng Kinh  		điển). Tuy 
nhiên vài kinh văn về A Tỳ Đạt Ma cần được điều chỉnh đầy đủ  		hơn. 
Thêm nữa, nó cũng được tái bản chừng 60 tập, những chú giải Pali về  		
Tam tạng, bên cạnh một số khâu phù hợp với chủ đề khác, ngôn ngữ Anh có 
 		chừng 58 tập thể hiện toàn bộ Tam tạng, và được kèm thêm Từ điển  		
Pali-English, English-Pali, và mục lục Tam tạng Pali.
      		Điều thú vị khi quan sát ở đây 
là, trong khi các quốc gia ở lục địa châu  		Âu giống như Pháp và Bỉ 
chuyên môn hóa về Đại Thừa thì Anh quốc lại  		chuyên môn hóa về Nguyên 
Thủy. Do đó chỉ nhìn vào Bibiographie  		Bouddhique với 31 bộ, được xuất
 bản tại Paris với khả năng của người  		Trưởng ban biên tập 
Mademoiselle marcelle Lalou, mới biết được thành  		tích vĩ đại của công
 việc phát hành trên cánh đồng nghiên cứu Phật Giáo  		tại phương Tây 
trong vòng thế kỷ 19 và 20.
      		Sự hứng thú đối với hầu hết 
những Học giả thuộc ngành Phật học là, đối  		với họ nó là một lãnh vực 
mới về sự khảo cứu giống như lịch sử hoặc khảo  		cổ học, và không phải 
là một Tôn giáo sống hay một cách sống. Với Rhys  		Davids, đặc biệt nó 
không chỉ đơn giản là một phân khoa, mà còn là sự  		tác dụng sinh động.
 Ông ta nói: “Phật Giáo hay không Phật Giáo, tôi đã  		từng nghiên cứu 
từng hệ thống Tôn giáo lớn trên thế giới, và chẳng có  		một Tôn giáo 
nào mà tôi tìm được bất cứ điều gì nổi bật, tốt đẹp và toàn  		diện hơn 
Bát Chánh Đạo của Đức Phật. Tôi thỏa mãn định hướng của mình  		với con 
đường đó.”
      		Và con đường này đã không được 
biết đến một cách phổ biến ở phương Tây  		như hôm nay nếu không có sự 
nỗ lực vị tha của những nhà nghiên cứu ( duy  		một vài người mà tôi có 
thời gian tán dương tại đây). Hôm nay Đạo Phật  		đang chuyển đến một 
hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố  		gắng thực hành 
lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống. Vài người  		Cơ Đốc cho 
rằng Triết học Phật Giáo nếu phối hợp với niềm tin Thiên Chúa  		thì tốt
 hơn Triết học cổ điển của Plato và Aristotle, và tốt hơn thuyết  		hư 
vô yếm thế nào đó. Sự hứng thú bao quát về Phật Giáo thì đang tăng  		
lên và nhiều hơn. Hàng trăm sách về Phật Học dành cho mọi tầng lớp được 
 		viết bởi những người có khả năng chuyên môn và không chuyên môn đã 
xuất  		hiện. Nhiều trung tâm và tổ chức quần chúng Phật Giáo, ngay cả 
những  		Tịnh Xá và những ngôi Chùa đã có mặt trong nhiều quốc gia châu 
Âu và Mỹ  		quốc. Những hoạt động Phật Giáo quần chúng tại Phương Tây đã
 tăng lên  		một cách đáng kể vào năm 1956 khi Buddha-Jayanti, hơn 2500 
năm kỷ niệm  		Phật Giáo, đã được diễn ra trong phương diện quốc tế.
      		Dẫu rằng sau gần một thế kỷ rưỡi
 nghiên cứu Phật Giáo, nhưng phương Tây  		vẫn còn thịnh hành vài nhận 
thức sai lầm cơ bản đã bị ảnh hưởng bởi  		những người cầm bút đầu tiên 
với sự thiếu hiểu biết hay vì ác cảm nào  		đó. Chẳng hạn như có sự nhận
 thức sai lệch rằng Phật Giáo là một Tôn  		giáo bi quan. Phật giáo 
không bi quan mà cũng không lạc quan. Thay vào,  		nó là duy thực, vì 
Phật Giáo chủ trương một quan niệm hiện thực đối với  		đời sống và thế 
giới. Nó không ngụy tạo và ru ngủ chúng ta đi vào đời  		sống với một 
thiên đường khờ khạo, hoặc khủng bố và hành hạ chúng ta với  		nỗi sợ 
hãi ảo tưởng và những cảm giác tội lỗi. Phật Giáo chỉ cho chúng  		ta 
một cách chính xác và khách quan những gì mà chúng ta là, và những gì  	
	mà thế giới hiện tượng xung quanh chúng ta là, và chỉ cho chúng ta con 
 		đường tự do, hòa bình, yên tĩnh và hạnh phúc hoàn hảo.
      		Đức Phật dạy Bốn chân lý cơ bản 
gắn liền với đời sống chúng ta, sự hiện  		hữu của chúng ta. Đó là chân 
lý được hiểu bằng Tứ Diệu Đế. Chân lý đầu  		tiên là cuộc sống của chúng
 ta là vô thường và bị lệ thuộc với những  		xung đột, khổ đau và bất 
như ý đối với thân và tâm. Chân lý thứ hai  		trình bày về nguyên nhân 
của tất cả khổ đau, xung khắc và bất như ý là  		do tham ái cố hữu của 
chúng ta, do tư tưởng sai lầm của chúng ta về bản  		ngã. Chân lý thứ ba
 ngài tuyên bố rằng bằng cách từ bỏ những sự đối đãi,  		đau khổ thì có 
thể đạt tới sự tự do, hài hòa và an ổn, đồng thời có thể  		nhập được 
chân lý tuyệt đối (Niết bàn-Nirvana) ngay tại đây và bây giờ,  		trong 
đời sống này. Cuối cùng, Chân lý thứ tư Ngài trình bày về phương  		
pháp, con đường để đạt tới trạng thái yên tĩnh xuyên qua những nỗ lực  	
	của chính mình, xuyên qua đạo đức tâm linh và sự tôi luyện trí tuệ hoàn
  		hảo.
      		Điều này không có tính bi quan, 
những con người trong các quốc gia Phật  		Giáo thì không bi quan yếm 
thế, họ là những người lạc quan. Nghệ thuật  		và kiến trúc Phật Giáo 
như những ngôi chùa chẳng bao giờ gây ấn tượng  		tối tăm và sầu não, 
nhưng lại phát ra một sinh khí yên bình và thanh  		thoát. Thực vậy, căn
 cứ vào Phật học, niềm vui (piti-hỷ) là một trong  		bảy phẩm chất cần 
thiết cho sự giác ngộ. Nghệ thuât Phật Giáo như hội  		họa và điêu khắc,
 Đức Phật luôn luôn được biểu thị cho sự thanh tịnh,  		hòa bình, trầm 
tĩnh và từ bi. Không bao giờ nhuốm chút sầu khổ, trắc ẩn  		hoặc hình 
phạt nào đó được thấy trên vẻ mặt của Ngài. Triết gia Đức  		Hermann 
Keyserling nói rằng: “Phương Đông thành công với những gì phương  		Tây 
chưa với tới được. Sự thể hiện có thể nhận ra sự nhiệm mầu ấy. Tôi  		
biết không có gì vĩ đại đối với thế giới này hơn hình ảnh của Đức Phật.”
  		Sự sáng tạo đối với nghệ thuật vô cùng quan trọng này, hình ảnh Phật
 Đà,  		không thể được phát xuất từ một tôn giáo bi quan.
      		Lại có những quan niệm sai lầm 
khác, giống như hầm mộ, rằng Phật Giáo là  		môt Tôn giáo Tự viện, một 
tôn giáo dành cho những Thầy tu sống trong  		những tu viện cách biệt, 
và không có ai hướng dẫn đời sống thế tục. Giáo  		lý của Đức Phật không
 phải chủ đích duy nhất dành cho các Tăng sĩ.Thực  		vậy, nó dành cho 
hết thảy mọi người. Ngài Vacchagotta một hôm hỏi Đức  		Phật một cách 
thành thật rằng, có thiện nam thiện nữ nào có thể hướng  		dẫn người thế
 tục hay không khi họ tuân theo lời dạy của Đức Phật một  		cách thành 
công và đạt tới trạng thái tâm linh cao. Đức Phật tuyên bố  		một cách 
xác thực rằng, không chỉ có một hay hai, không chỉ có một trăm  		hay 
hai trăm hoặc năm trăm, nhưng nhiều hơn thế nữa. Đúng như hôm nay,  		nó
 chỉ là một câu hỏi về sự nỗ lực chân thực.
      		Điều này lại có thể được hỏi 
rằng, nếu một người bình thường tu tập giáo  		pháp và hướng dẫn đời 
sống của người tại gia, tại sao Đức Phật lại thành  		lập Tăng Bảo? Tăng
 Già là tạo cơ hội cho những ai tình nguyện hiến dâng  		đời sống của họ
 không chỉ đối với tinh thần và sự phát triển trí tuệ của  		chính họ, 
mà còn vì sự phục vụ cho tha nhân. Một người bình thường với  		một gia 
đình không thể tận tụy toàn bộ đời sống của họ để phục vụ cho  		người 
khác như một Tăng sĩ. Nó chứng tỏ rằng, sự từ bỏ đúng với nghĩa  		Phật 
Giáo không phải là sự trốn tránh hèn nhát, nhưng là sự từ bỏ tất cả  		
đời sống ái dục và đam mê cá nhân, đối đầu với đời sống dũng cảm và con 
 		đường cao quí hơn để có thể phục vụ nhân loại. Một vị Bồ Tát từ bỏ 
mọi  		thứ, ngay cả Niết bàn của chính mình, với mục đích phục vụ chúng 
sinh,  		không trốn tránh đời, vị ấy dành hết đời sống chính mình cho 
tất cả  		chúng sinh.
      		Một số khác cho rằng, Phật Giáo 
thì tuyệt vời, thế nhưng những tư tưởng  		cao siêu, quan điểm triết học
 và luân lý tối thượng, vì thế đã lờ đi và  		quên lãng xã hội và phúc 
lợi của con người. Đấy, laị là một nhận thức  		sai lầm tai haị! Đức 
Phật đã quan hệ đối với hạnh phúc của con người.  		Với Ngài, hạnh phúc 
thực sự không thể đạt được nếu không chủ đạo được  		một đời sống thuần 
túy, nếu không dựa vào những nguyên lý đạo đức và  		tinh thần. Nhưng 
ngài cũng hiểu rằng sự khó khăn về việc hướng dẫn đối  		với đời sống 
trong vấn đề thiếu thiện chí và những hoàn cảnh xã hội. Dĩ  		nhiên Phật
 Giáo không quan tâm đến chủ đề phúc lợi như một sự kết thúc  		đối với 
chính nó. Nó là cách duy nhất để kết thúc, một sự kết thúc cao  		quí và
 tối diệu hơn, nhưng nó có nghĩa vô cùng thiết yếu.
      		Đức Phật không chối bỏ đời sống 
với bối cảnh xã hội và mô hình phúc lợi  		của chính nó. Ngài nhìn nó 
một cách có qui tắc như là một tổng thể trong  		tất cả khía cạnh xã 
hội, kinh tế và chính trị của chính nó. Giáo lý về  		đạo đức, tôn giáo 
và triết học của Ngài thì rất rõ ràng ai cũng thấy.  		Nhưng có những 
thời pháp phối hợp với ba câu hỏi, ví dụ, môt trong những  		thời pháp 
mà Ngài nói rằng một người bình thường hướng dẫn đời sống thế  		tục bao
 gồm bốn điều: Một là hạnh phúc, là người chủ quyền thu nhập, bảo  		đảm
 kinh tế (atthi-sukha); hai là, thụ hưởng về sự giàu sang của chính  		
mình (bhoga-sukha); ba là, không có mắc nợ (anana-sukha) và bốn là vô  	
	tội, thanh khiết, đạo đức và có đời sống tâm linh (anavajja-sukha). Ở  
		đây cần phải nhận ra rằng ba câu đầu thuộc về kinh tế và và vật chất. Ở
  		chỗ khác Đức Phật nói rằng một trong những nguyên nhân đồi bại và 
tội  		lỗi là nghèo khó (daliddiya),và rằng thay vì cố gắng chặn đứng 
chúng nó  		bằng những hình phạt, điều này là một phương pháp vô ích và 
không thành  		công, những nhà cầm quyền nên tìm mọi cách tăng trưởng 
tiêu chuẩn kinh  		tế cho mọi người. Dấu hiệu này rất là hiện đại, thực 
tế. Đạo Phật, mặc  		dù đã hai mươi lăm thế kỷ xưa, nhưng rất mới mẻ. Nó
 xuất hiện với những  		tư tưởng hợp lý, có khoa học. Phật giáo xuất 
hiện tại Ấn Độ như một sức  		mạnh tinh thần đấu tranh với những bất 
công xã hội, những giáo điều  		cuồng tín thoái hóa với những lễ nghi và
 sự cúng tế thần linh. Nó bãi bỏ  		sự chuyên chế của hệ thống giai cấp 
và lấy lại sự bình đẳng cho tất cả  		mọi người, giải phóng phụ nữ và 
cho họ đầy đủ sự tự do tình thần.
      		Trong Phật Giáo không có những 
giáo điều độc đoán hoặc những niềm tin  		chấp nhận sự mù quáng mà không
 có câu hỏi. Nó đem đến cho mọi người  		những trách nhiệm và chân giá 
trị đầy đủ. Đức Phật khuyên con người tự  		làm chủ chính mình. Theo 
Phật Giáo, không ai cao hơn ai trong việc xét  		xử những vấn đề và số 
kiếp của người khác. Điều này có nghĩa là, cuộc  		sống của chúng ta, xã
 hội của chúng ta, thế giới của chúng ta, là những  		gì các bạn và tôi 
tạo ra nó và không phải là ý muốn của ai đó mà chúng  		ta không biết 
đến. Đức Phật dạy, con người tự nương tựa chính mình,  		không ai khác 
có thể nương tựa.
      		Dựa trên những nguyên tắc về 
trách nhiệm cá nhân, sự tự do về tư tưởng  		được hướng dẫn bởi Đức Phât
 là chưa từng có ở bất kỳ nơi nào trong lịch  		sử Tôn giáo. Ngài khuyên
 chúng ta ( Kalama-sutra) đừng chấp nhận bất cứ  		điều gì chỉ vì nó đã 
trở thành truyền thống, hoặc được sắp đặp trong  		kinh điển Tôn giáo, 
hoặc được truyền thừa từ các bậc thầy,hoặc bởi người  		khác chấp nhận. 
Điều duy nhất khi chúng ta rõ thấu với chính mình rằng  		những điều nào
 đó là tốt và có ích, rồi chúng ta nên chấp nhận chúng.  		Khi chúng ta 
biết về chính mình rằng những điều nào đó và không có ích,  		chúng ta 
nên từ bỏ nó.
      		Không chỉ đơn thuần tự do tư 
tưởng, những lời dạy cởi mở của Đức Phật  		đang làm ngạc nhiên với 
những nghiên cứu sinh khoa lịch sử Tôn giáo. Một  		lần Upali, một tín 
đồ quan trọng của Ấn giáo, cầu xin Đức Phật chấp nhận  		ông ta như một 
tín đồ của Ngài, Đức Phật khuyên ông ta nên tôn trọng và  		ủng hộ những
 Đạo sư tôn giáo cũ của ông ta như Upali đã làm trước kia.
      		Vào thế kỷ thứ 3 B.C, Đại đế 
Phật tử Asoka là những điển hình cao quí về  		tính khoan dung và sự 
hiểu biết. Ông ta quý trọng và ủng hộ tất cả Tôn  		giáo trong  Đế quốc 
mênh mông của ông. Một trong những bia đá Sắc lệnh,  		Đại đế tuyên bố 
rằng: Những kẻ không đáng tôn quí là kẻ có Tôn giáo và  		chê bai những 
Tôn giáo của người khác. Cho nên ngoài việc hỗ trợ cho Tôn  		giáo của 
chính mình phát triển ông ta còn phục vụ đối với các Tôn giáo  		khác… 
Hãy lắng nghe và sẵn sàng lắng nghe những ai tự xưng mình có học  		
thuyết.
      		Tinh thần cởi mở tư tưởng, phóng
 khoáng và sự thông cảm hiểu biết này là  		được bắt nguồn từ sự khởi 
đầu của một trong nhiều lý tưởng mong ước của  		văn hóa và văn minh 
Phật Giáo, và có thể được quan tâm như bài học quan  		trọng nhất mà thế
 giới hôm nay có thể học từ Đức Phật. Mặc dù những quốc  		gia Phật Giáo
 đã có thể đi đến chiến tranh vì chính trị hay những lý do  		khác, 
nhưng không có sự điển hình về sự khủng bố hay đổ máu đối với mục  		
đích truyền bá Đạo Phật. Với thời gian lịch sử lâu dài trên hai nghìn  	
	năm trăm năm, Phật Giáo truyền bá một cách hòa bình trên tất cả lục địa
  		Á Đông và có hơn sáu trăm triệu người theo Phật Giáo.
      		Nếu con người hiện đại không tin
 vào một thượng đế cá nhân, nếu người ta  		không chấp nhận một vài giáo
 điều về việc thành lập Tôn giáo không phù  		hợp với tinh thần khoáng 
đạt của khoa học tân tiến, nó không đòi hỏi cần  		thiết một sự quan tâm
 đến, hoặc tóm lại, những giá trị đạo đức và tinh  		thần cái tạo thành 
tính chất Tôn giáo tự nó đã lạc đường. Thực tế của  		con người thời nay
 là sự khát khao đời sống tâm linh Tôn giáo và gạt bỏ  		đi những giáo 
điều tín ngưỡng và thần thoại độc đoán lỗi thời.
      		Có một sự tin tưởng thông thường
 rằng sự phát triển vật chất và kỹ thuật  		sẽ không có triển vọng đối 
với đời sống Tôn giáo và tinh thần. Điều này  		khó khăn để hiểu về sự 
hữu ích như thế nào với cây đèn dầu hơn bóng đèn  		điện trong đời sống 
Tôn giáo, hoặc xe bò, xe ngựa cần sản phẩm tinh thần  		nhiều hơn xe tự 
động? Nếu Tôn giáo không thể sống trong một xã hội phát  		triển vật 
chất và khoa học, trong môt xã hội thịnh vượng, nếu nó có thể  		phát 
triển trong một xã hội nghèo khổ khốn cùng và ngu dốt, và rồi nhanh  		
chóng biến mất từ bề mặt trái đất này là việc tốt nhất cho nhân loại?  	
	Những quan niệm cực kỳ hủ lậu và lỗi thời về sự bày tỏ  đối với Tôn 
giáo  		cần phải thay đổi. Với sự thay đổi thời gian, nhưng tinh thần 
Tôn giáo,  		niềm tin và hiểu biết đúng, sẽ tồn tại và tiếp tục làm mới 
con người.
      		Phật giáo là một tín ngưỡng và 
cũng không phải là tín ngưỡng, nó là  		phương pháp sống. Rất ngắn gọn, 
phương pháp nầy gọi là Tám Điều Chân  		Chánh, nó kết hợp tám loại hay 
tám lĩnh vực, nghĩa là Hiểu Biết Đúng, Tư  		Duy Đúng, Nói Năng 
Đúng,Hành Động Đúng, Đời Sống Đúng, Nỗ Lực Đúng, Suy  		Nghĩ Đúng, Thiền
 Định Đúng. Nhằm mục đích phát triển ba phẩm chất cơ bản  		cần thiết về
 sự hạnh phúc đích thực của con người, sự bình an hài hòa  		của tự 
thân, và đối với việc nhận thức về Sự Thật Cuối Cùng.
      		Việc đầu tiên là có hạnh kiểm 
đạo đức và tinh thần khiết. Nếu không có  		điều này thì không thề phát 
triển được thiện tâm. Thứ hai, đầu óc trong  		sáng và tiến triển về 
thiền định, điều này rất cần thiết cho nội tại,  		trong sự yên tĩnh, 
hài hòa và cân bằng. Thứ ba, là sự phát triển về trí  		tuệ, cái này 
không chỉ là khả năng nhìn thấy vạn vật khách quan như  		chúng nó đang 
là, không chỉ là sự cảm nhận chân lý, nhưng chúng ta cũng  		đạt tới sự 
giải thoát hoàn toàn từ những ham muốn căm thù và bạo lực của  		bản ngã
 và sự dung nhiếp vô hạn tình yêu thương tất cả hiện hữu mà không  		còn
 phân biệt. Sự đạt được trí tuệ và từ bi hoàn hảo này là mục đích đối  	
	với phương pháp sống của Phật Giáo.
      		Điều này có thể được hỏi: Phật 
Giáo trả lời như thế nào về sự xáo trộn  		của xã hội, sự xung đột của 
xã hội? Câu trả lời của nó rất rõ ràng, như  		câu kinh Pháp Cú dạy, tất
 cả sự bất an, tất cả sự xung đột và tất cả lo  		âu đều phát xuất từ 
tâm. Sự xung đột hoặc chiến tranh không có gì ngoài  		sự biểu lộ cực 
mạnh của tính tham lam, căm thù, ác ý, bạo lực, dốt nát  		và phát khởi 
từ những người đàn ông. Sự xung đột xã hội không có gì  		ngoài sự xung 
đôt cá nhân trên một bình diện lớn. Xã hội không tách rời  		cá nhân, và
 sự đối lập của xã hội không tách khỏi sự đối lập cá nhân.  		Nếu có hòa
 bình giữa những cá nhân, thì xã hội mới hòa bình. Cho nên để  		có được
 nền hòa bình trên thế giới chúng ta cần phải sản xuất hòa bình  		giữa 
những cá nhân, cung ứng cho họ sự an ninh xã hội, kinh tế đạo đức  		và 
tinh thần. đây là câu trả lời của Phật Giáo. Nó rất rõ ràng, nhưng  		
rất khó khăn khi thực hiện. Trừ phi nó được hoàn thành, nếu không thì  	
	chẳng có giá trị gì về sự thương lượng và thỏa hiệp ở trên trang giấy 
để  		có thể sản xuất ra hòa bình thực sự trên thế giới.