Đầu
tròn áo vuông mà Thầy có được ngày hôm nay,ân đức ấy phần lớn là nhờ
ngoại . Thầy sinh trưởng tại xóm Trại Mộ , xã Biển Hồ thuộc Tỉnh Pleiku
cũ (nay là Tỉnh Gia Lai ) . Chắc các con sẽ rất ngạc nhiên về địa danh
Trại Mộ . Từ nửa bên kia trái đất người Pháp đã đến Việt Nam,đến vùng
cao nguyên trung phần có tên là Gia Lai này để vỡ hoang khai khẩn,thành
lập Đồn Điền trồng Trà,Cà phê,Cao Su về làm giàu cho mẫu quốc ( họ coi
mình là nước con còn họ là nước mẹ . Mẫu quốc là nước mẹ ) . Đó là vào
năm 1921 ,họ thành lập tại vùng Biển Hồ này một Đồn Điền trồng rất nhiều
Trà,nên mới có địa danh là Biển Hồ Trà . Cách chùa Bửu Minh mình non
cây số về hướng tây , họ thành lập những lán trại tạm bợ , rồi cho người
về các Tỉnh Bình Định,Phú Yên,Quảng Ngãi,Huế,Quảng Trị tuyển mộ công
nhân làm cho họ . Trong nhiều lần tuyển mộ đó ,ngoại và mẹ Thầy đã theo
những người tuyển mộ lên vùng Biển Hồ này lập nghiệp và ở tại xóm Trại
Mộ làm công nhân cho chủ Pháp,chủ Tàu cho đến lúc đất nước hoàn toàn
giải phóng . Ngoại và Mẹ Thầy đã mất tại vùng đất này .
Theo những thông tin mới nhất thì hiện nay tại Pháp tín đồ Đạo Phật
đứng thứ ba sau đạo KyTô và Tin Lành ,song thời điểm người Pháp đi xâm
chiếm thuộc địa thì họ chưa hề biết đến Đạo Phật ,vậy mà muốn được lòng
công nhân họ đã tôn trọng tín ngưỡng bản địa cho xây dựng Chùa trên đất
trồng chè của họ . Nơi này nơi khác trên đất nước mình họ có những kỳ
thị khó khăn cấm đoán đối với đạo phật , nhưng riêng tại Đồn Điền Trà
Biển Hồ thì họ lại tạo điều kiện cho xây dựng chùa . Chùa Bửu Minh có
mặt rất sớm ở tỉnh Gia Lai , chính là nhờ ông chủ Pháp tốt bụng tên là
Henri-Deguenivau . Uống nước nhớ nguồn nên Thầy phải nhắc lại nguồn gốc
khởi điểm của ngôi chùa . Sau khi làm công nhân cho chủ Pháp đã đủ
năm tháng bà ngoại Thầy về hưu và lãnh lương hưu hằng tháng . Khi tuổi
xế chiều ngoại xin vào chùa Bửu Minh ở tu niệm, quét lá đa . Cùng ở
chùa với ngoại có ông Năm Tròn và bà Chính Bái (cũng là công nhân về
hưu ) . Ngoại Thầy tầm vóc nhỏ , mặt trái soan mũi thẳng tai
rất to . An nói mực thước đâu ra đấy , ngồi kiết già rất giỏi , thuộc
lòng năm đệ Lăng nghiêm , Phẩm Phổ Môn , Kinh A Di Đà . An ít và thường
hay ăn cháo , ngoại sống đến 86 tuổi mới mất . Đặc điểm nổi bật nhất ở
nơi ngoại là đức tính kính trọng tăng ,dù vị đó là Sa Di là Điệu .
Ngoại có một xâu chuỗi Kim Cang , ngày đêm chí thành lần chuỗi niệm
Phật , theo tháng năm công phu xâu chuỗi bóng ngờilên . Xâu chuỗi chỉ có
54 hột chứ không phải 108 . Khi ngoại mất đi Thầy đã giữ lại xâu chuỗi
không liệm chôn , nhưng đến nay thì xâu chuỗi đã thất lạc không còn nữa
. Trong xóm Trại Mộ,sát cạnh nhà Thầy có gia đình Chú Mười , quê
quán An Khê,Bình Định dược tuyển mộ lên làm công nhân . Vợ chồng Chú
Mười rất hiền khéo ăn ở cư xử , sinh được con trai đầu lòng đặt tên H ,
cứ vài hôm là H khóc một lần , thường là về ban đêm . Khóc như có ai véo
ngắt ,ré thét lên , Ba mẹ không có cách gì dỗ dành cho chú bé nín , mỗi
lần khóc như vậy chiếc rún nhỏ xíu cứ theo tiếng khóc mà lòi ra . Không
còn cách dỗ dành cho con nín , nóng ruột quá vợ chồng Chú Mười đành cầu
cứu đến ngoại ( ngoại rất nghiêm nên vợ chồng Chú Mười ít dám làm phiền
) . Om chú bé H vào lòng ngoại dỗ dành mắng yêu :” Mẹ mầy , làm gì mà
khóc dữ vậy “ vừa nói ngoại vừa tháo xâu chuỗi Kim Cang từ nơi cổ ngoại
tròng vào cổ chú bé và thì thầm niệm tụng câu thần chú ÁN MA NI BÁT DI
HỒNG .Ngoại có công phu tu tập , có hành trì nên khi trì niệm minh chú
rất hiệu lực . Tiếng niệm của ngoại như dỗ dành , như xua đuổi những
thế lực vô minh đe doạ tuổi thơ , chú bé H thôi khóc và ngủ thiếp đi
trong vòng tay thương yêu của ngoại . Vợ chồng Chú Mười ngày mới
lên lập nghiệp ở xóm Trại Mộ-Biển Hồ nghèo khổ lắm , thỉnh thoảng mượn
tiền ngoại chi tiêu và quý ngoại nhất là khéo dỗ cháu bé H nín khóc ,
với tình cảm đó nên vợ chồng chú thím gọi ngoại là mẹ . Những năm tháng
về sau vợ chồng chú thím làm ăn khá giả ,luôn nhớ đến ơn ngoại , thỉnh
thoảng ghé thăm và biếu tặng quà. Vợ chồng Chú Mười hiện nay vẫn còn
sinh sống ở Thành Phố Pleiku , chú bé H hay khóc đêm năm xưa nay đã gần
50 tuổi ,thành đạt trên con đường công danh sự nghiệp , có địa vị trong
xã hội . Thời điểm ngoại ở chùa thì Sư Ong của các con đã trụ
trì chùa Bửu Minh rồi . Từ xóm Trại Mộ đến chùa Bửu Minh khoảng non cây
số , gia đình thầy gốc đạo phật lại có ngoại ở chùa nữa nên thầy thường
xuyên đến chùa thăm ngoại , thỉnh thoảng ngủ lại chùa với ngoại . Thầy
rất thương ngoại và biểu lộ tình thương bằng cách viết tên ngoại lên
trên cánh cửa phòng ngoại bằng ván hai chữ :” Bà Quại “ . Cách phát âm
của người Bình Định gọi bà ngoại là bà quại , đọc sao viết vậy nên Thầy
đã viết ngoại thành quại ( lúc đó Thầy đang học lớp ba ) nhớ về ngoại
Thầy luôn nhớ đến kỷ niệm này . Thói thường ai có lý tưởng , có
đức tin đều muốn truyền lý tưởng và đức tin mình đến với người khác bằng
nhiều cách khác nhau . Ngoại cũng vậy , thương Phật mộ đạo muốn cháu
cùng theo ở chùa với mình , nên ngoại ưu tiên Thầy nhiều hơn những người
cháu khác như để dành cái bánh ,củ khoai,trái chuối…thương ngoại lại có
sư chú Giác Viên động viên phân tích ,nên Thầy đã quyết chí “ Cát ái từ
sở thân “ . Biết Thầy đồng ý đi xuất gia, ngoại mừng hơn ai hết . Thế
rồi ngoại lựa ngày lành tháng tốt thưa Sư Ong cho Thầy xuống tóc làm
chú Tiểu . Nhân duyên vào cửa Phật của Thầy là như vậy . Ngoại
Thầy mất đã nhiều năm , nhớ về ngoại Thầy chỉ nhớ được chừng đó , nhân
mùa Vu Lan Báo Hiếu Thầy moi lại trong ký ức những kỷ niệm về ngoại ,
viết lại thành chân dung để các con hiểu được Bà Cố trong gia đình tâm
linh của mình .
Mùa Vu Lan Phật lịch 2546
Thích Giác Tâm