Thuận: Thường thường thì những lý thuyết mô tả thiên
nhiên gần đúng nhất và phù hợp nhất với thực nghiệm, là những lý
thuyết đẹp nhất. Tôi thử nói về cái quan niệm mâu thuẫn này về cái đẹp.
Mâu thuẫn vì lẽ khoa học thì được xem là hợp lý, lạnh lùng và không
gợi lên một cảm giác thẩm mỹ nào cả. Nhưng các nhà khoa học thì luôn nói về cái đẹp. Hãy nghe nhà toán học Henri Poincaré:
Nhà khoa học không nghiên cứu thiên nhiên vì lợi ích. Ông ta nghiên
cứu vì ông ta thích thú trong công việc, và ông ta thích thú vì thiên
nhiên rất đẹp. Nếu thiên nhiên không đẹp, thì ta sẽ không bỏ công
nghiên cứu và cuộc đời cũng không đáng sống.
Chúng ta không có khó khăn nào để hình dung vẻ đẹp của những hiện
tượng thiên nhiên, của hoa hồng ban mai, của những hoàng hôn rực rỡ màu
sắc, của vẻ đẹp các vì sao và các thiên hà. Tôi không khỏi sững sờ và
thán phục khi trên màn hình hiện ra qua viễn vọng kính, những chòm
sao mới hoặc những đường xoắn ốc do các thiên hà cách địa cầu hằng tỷ
năm ánh sáng tạo nên.
Nhưng ngoài vẻ đẹp bề ngoài, còn một vẻ đẹp tế nhị và trừu tượng
hơn. Đó là vẻ đẹp của các lý thuyết. Một lý thuyết được xem là đẹp, khi
lý thuyết ấy được bắt buộc xác định, nó được xem như một sự thật hiển
nhiên.
Trước một lý thuyết đẹp, nhà vật lý không thể không thốt lên: “Nó đẹp quá đến mức nó phải là sự thật, tại sao ta không nghĩ đến nó trước đây nhỉ?”
Vì lẽ đó, thuyết tương đối của Einstein đẹp như một tấu khúc của
Bach trong đó ta không thể thay đổi một âm không làm hỏng bản nhạc, hay
đẹp như nụ cười của La Joconde, nơi đó ta không thể thay đổi một nét
vẽ nào mà không làm hỏng bức tranh. Đặc tính thứ nhất của một lý
thuyết đẹp là tính cần thiết của nó.
Đặc tính thứ hai là nét đơn giản của nó. không nhất thiết là sự đơn
giản các phương trình, mà là những ý niệm chính trong lý thuyết. Vũ
trụ “Nhật tâm” của Copernic (Mặt trời tâm điểm) nơi các hành tinh xoay
quanh mặt trời, đơn giản hơn là vũ trụ “Địa tâm” của Ptolémé (Trái đất
là tâm điểm) nơi các hành tinh xoay quanh những vòng tròn mà tâm điểm
di chuyển trên những vòng tròn khác.
Lý thuyết của Copernic đẹp vì nó không cần nhiều giả thuyết để giải
thích sự di chuyển của các hành tinh. Sau cùng đặc tính thứ ba cũng
là nét độc đáo nhất, là sự thật, là sự tiết lộ những liên hệ mà cho
đến nay không ai ngờ tới.
Matthieu: Có lẽ cần nói tế nhị hơn một chút. Bạn vừa nói sự thật nào vậy? Khi bạn nói phù hợp với thiên nhiên thì cũng giống như một
phương trình thích ứng với kinh nghiệm phải vậy không? Như chúng ta đã
thảo luận, việc thử nghiệm khoa học, không cho phép chúng ta nói rằng
chúng ta đã phát giác ra bản thể tối hậu các hiện tượng.
Thuận: Ở đây tôi nói sự thật từ những dụng cụ đo đạc, hay nói theo Phật giáo, là sự thật quy ước.
Hãy xem lý thuyết tương đối của Einstein, theo ý kiến chung của các
nhà vật lý, đó là thuyết đẹp nhất và là tòa lâu đài tinh thần hài hòa
nhất mà khoa học đã xây dựng được. Không những thuyết này đã nối kết và
hợp nhất các quan niệm căn bản của khoa vật lý khi ấy hoàn toàn tách
biệt nhau như: không gian thời gian, năng lượng và di động, gia tốc và
hấp dẫn mà nó còn phát giác ra những hiện tượng lạ lùng mà chưa hề ai
biết.
Thuyết tương đối tổng quát không ngừng đưa đến cho chúng ta nhiều
khám phá mới, năm 1915 là năm thuyết được công bố, người ta tưởng rằng
vũ trụ cân bằng và ổn định. Thật ra các phương trình Einstein đã chỉ ra
rằng vũ trụ năng động khi thì giãn nở, khi thì co rút. Einstein đã
không thật tin tưởng vào thuyết của chính ông, nếu không ông đã thiết
lập được 14 năm, trước khi Hubble chứng minh vũ trụ đã trương nở.
Những lỗ đen cũng là một hiện tượng được lý thuyết tương đối tiên
đoán. Einstein cũng không tin vào điều này. Ông nói rằng thiên nhiên rất
khiếp hãi về những hiện tượng đó mà thuyết tương đối không diễn tả
được. Lẽ ra ông cũng nên tin vào thuyết của ông, và những lỗ đen được
khám phá trong dãy Ngân hà và trong những thiên hà khác.
Ví dụ thứ ba là về những “thấu kính hấp dẫn”. Thuyết tương đối cho
chúng ta biết rằng có những nơi mà các thiên hà khổng lồ làm cong không
gian, và làm lệch đi ánh sáng từ các vật thể xa, do đó tạo nên những
ảo ảnh vũ trụ. Những thiên hà đó được gọi là “những thấu kính hấp dẫn”,
và đã được khám phá vào năm 1979. Cần thiết, đơn giản và hợp với sự
thật là những nét đặc thù của một lý thuyết đẹp.
Matthieu: Tôi có thể nói rằng phương trình thích
ứng với cái đẹp gần giống như quan niệm của Phật giáo về cái đẹp. Nhưng
ở đây sự thật là một phương trình thích ứng với bản thể của con
người. Định nghĩa đơn giản nhất của cái đẹp là những gì đem đến cho ta
một sự an lạc mà tùy trường hợp được cảm thọ như một thích thú hay
một hạnh phúc. Điều này cho phép chúng ta nhận thức nhiều mức độ về
cái đẹp gắn liền với nhiều mức độ an lạc. Ta có thể cho rằng vẻ đẹp
tương đối đem đến cho ta một sự thỏa mãn tạm thời, và vẻ đẹp tuyệt đối
đem đến cho ta một sự an lạc kéo dài, đôi khi không hề thay đổi.
Thuận: Vẻ đẹp cần đáp ứng những tiêu chuẩn tùy theo
trạng huống văn hóa, xã hội, tâm lý và cả sinh lý nữa. Mẫu vẻ đẹp
thời họa sĩ Renoir là một người đàn bà có nét đầy đặn. Trong thập niên
60, lại là một mẫu người mảnh mai. Khi mà Van Gogh chết trong nghèo
khó vì bán không được tranh, thì vài thế kỷ sau tranh ông báo với giá
không tưởng tượng nổi.
Còn về vẻ đẹp của một lý thuyết khoa học, thì lại ít tùy thuộc hơn
vào trạng huống văn hóa: một nhà vật lý người Việt cảm nhận về vẻ của
những thuyết tương đối tổng quát cũng giống như những bạn đồng nghiệp
Pháp Mỹ của ông ta.
Matthieu: Vì lẽ những người này được huấn luyện
tương tự như nhau. Tôi ngờ rằng thuộc hạ của một bộ tộc bán khai có
cùng chung một nhận xét: Ta có thể xem vẻ đẹp như sự hài hòa của từng
phần với toàn phần. Trong nghệ thuật Phật giáo, có một ảnh tượng học
rất chính xác, nêu rõ những kích thước lý tưởng để vẽ Đức Phật. Người
ta sử dụng một tấm lưới trên đó chỉ rõ độ cong của mắt, khổ mặt trái
xoan và các phần khác của cơ thể. Những nét vẽ đó tương ứng với sự hài
hòa tuyệt mỹ và phản ảnh sự hài hòa nội tâm của bậc Giác ngộ.
Thuận: Tôi luôn luôn ngạc nhiên về các bức chân
dung Đức Phật dù là hình vẽ hay pho tượng; do sự cân xứng, vẻ đẹp của
chúng luôn luôn đem đến một cảm giác an lạc sâu sắc.
Matthieu: Từ cái phụ đến cái chính, vẻ đẹp thay đổi
tùy theo cách mỗi người cảm nhận một sự thích thú về thẩm mỹ. Người
ta tìm thấy ở tất cả chúng sinh những hằng số về quan niệm hạnh phúc
và an lạc. Tình yêu và lòng vị tha đều đẹp, còn sự ghét bỏ và lòng đố
kỵ thì xấu xa.
Vẻ đẹp thật sự trở nên một phương trình thích ứng với bản thể con
người. Theo Phật giáo, bản thể này là một sự hoàn mỹ nội tại xây dựng
bằng kiến thức và tình yêu vì vậy nên tuyệt đối đẹp.
Chúng ta càng sống hài hòa với bản thể, chúng ta càng khám phá ra
vẻ đẹp nội tại nơi mỗi con người chúng ta. Vẻ đẹp tối thượng phù hợp
hoàn toàn với Phật tánh, với Giác ngộ. Khi ta nhìn thấy một nhân vật
đáng kính, một hiền triết, một vị thầy rạng rỡ, ta cảm thấy ta đang
đứng gần một vẻ đẹp tâm linh thu hút ta rất mạnh.
Vẻ đẹp tương đối thường không phụ thuộc vào vật thể mà thường liên
quan đến người quan sát. Rõ ràng là cùng một vật mà người này khen đẹp
mà người kia lại chê xấu. Một vật thể được cho là đẹp khi nó phù hợp
với điều mà ta mong ước.
Một nhà toán học thán phục trước một phương trình đẹp, còn ông kỹ
sư thì trước một cỗ máy đẹp. Người mơ ước được an tịnh, thì thưởng thức
một khúc nhạc mở đầu của Bach. Còn nhà ẩn sĩ thiền định về bản thể
tối hậu của tâm lại không cần như vậy.
Sự hòa hợp giữa tâm ông ta với các hiện tượng nằm trên một bình
diện khác. Theo ông thì hình dáng được xem như biểu hiện của sự tinh
nguyên ban sơ, còn âm thanh như âm vang của hư không và các tư tưởng
như trò chơi của kiến thức. Ông không còn phân biệt giữa cái hòa hợp và
cái bất hòa, cái đẹp và cái xấu.
Và như vậy đối với ông vẻ đẹp ở khắp nơi, và sự an lạc là bất biến.
Có câu nói “trên một hòn đảo toàn vàng, rất khó để tìm ra một viên đá
sỏi”.
Trích từ sách: Đối thoại giữa khoa học và Phật giáo: Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch Nhà xuất bản Phương Đông 2010