Tôi
tự nghĩ có lẽ một số đến để xem một nhân vật kỳ
lạ nào chăng, giống như chúng ta đến sở thú để xem một
con quái vật Bởi vì rõ không sai, tôi hẳn là một đối tượng
hơi khác thường vì ngày xưa tôi vốn là một tín đồ Thiên
chúa giáo La Mã. Nước Ý có gần 60 triệu dân và tôi lại
là một Phật tử duy nhất trong số đó. Tôi còn nhớ rõ,
có lần có một vị Giáo sĩ đến thăm tôi và nói: bạn là
người Phật tử duy nhất trong số 60 triệu dân Ý, đỉều
này chứng tỏ rằng tôn giáo của bạn không chân chính. Tôi
ngạc nhiên hết sức với câu nói này! Chỉ vì tôi là Phật
tử duy nhất trong số 60 triệu dân Ý mà ông ta nói Ðạo Phật
tôi không chân chính. Ðó chẳng qua là logic biện chứng, lý
luận kiểu này thì nếu Phật Giáo chân chính thì những người
dân Ý đều trở thành Phật tử hết.
Lúc
tôi đi xuất gia, mẹ tôi không biết tôi đi đâu, bởi vì
tôi không bao giờ nói với bà rằng tôi trở thành một Phật
tử. Tôi rời nước Pháp và qua Ấn Độ suốt năm không hề
viết cho mẹ một lá thư! Tại sao tôi đi xuất gia quy Phật
mà lại không xin phép? Bởi vì Thái tử Tất Ðạt Ða sau này
thành Phật, Ngài cũng rời bỏ cha mẹ đi tu mà không xin phép.
Chúng ta lẻ loi một mình trong biển trầm luân và mỗi người
cũng hộ trì đạo lộ của chính mình, không cần tìm cầu
sự giúp đỡ của người khác. Phật Giáo dạy lòng tự tin
và độc hành. Chúng ta phải kiên trì dũng cảm bước đi trên
đường Ðạo. Tôi có điều hối tiếc duy nhất là cha mẹ
tôi đã qua đời mà không phải là Phật tử.
Nếu
cha mẹ tôi qua đời là những người con Phật thì tôi rất
hài lòng và sung sướng biết bao. Tôi tiếc rằng họ qua đời
mà không tiếp nhận được của tôi một cơ hội bố thí
Pháp–món quà cao quý nhất trong tất cả món quà. Ðó là
món quà Chân lý, vì vậy tôi quyết định trở thành Sứ Giả
Như Lai với ý hướng truyền Phật Pháp đến mọi người
trên thế giới.
Mẹ
tôi qua đời cách đây 22 năm và nếu bà tái sinh thì bà phải
là 22 hay 21 tuổi. Cha tôi nếu tái sinh tuổi khoảng 16 tưổi,
đủ để hiểu Phật Pháp, bởi vậy khi tôi thuyết giảng
có lẽ cha mẹ tôi đã tái sinh có thể nghe lời tôi giảng
và trở thành Phật tử và nhờ vậy có thể chuyển hóa được
cha mẹ ngay từ hôm nay hay ở tương lai lâu xa.
Chúng
ta không nên vui hưởng chân lý cho riêng mình mà nên tạo cho
cha mẹ cơ hội chia sẻ được món quà Chân lý cao siêu, vì
nó là món quà tối thắng trong tất cả các món quà.
Theo
luật Phật thì chúng ta không được phép xuất gia nếu trước
tiên không được sự đồng ý của cha mẹ, nhưng Thái Tử
tất Ðạt Ða từ bỏ gia đình mà không xin phép. Ngài đã
chỉ đường cho tôi, Ngài cho phép tôi. Tuy nhiên cũng cần
nhớ rằng cha mẹ tôi chỉ cho tôi đời sống vật chất thôi,
nhưng chúng ta nương nhờ Phật, người đã ban cho chúng ta
đời sống tinh thần. Bởi vì người cha tinh thần là người
cha cao thượng hơn tất cả. Sách Pháp của Ngài–quyển Kinh
Pháp Cú đã hoàn toàn đưa đến sự thay đổi cuộc đời
của tôi. Ðức Phật đã tịch diệt cách đây 2500 năm. Giáo
Pháp của Ngài đã thấm nhuần trong tôi. Ðó là một sự cố
ngẫu nhiên thanh tịnh . Nếu tôi không đọc quyển Kinh Pháp
Cú đó, có thể tôi không mong gì trở thành đệ tử của
Phật được. Vì vậy khi Ðức Phật hứa khả, tôi đã hân
hoan vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai.
Nếu
tôi không được duyên phước thì giờ đây tôi đã bị kéo
lôi vào cảnh đời bi thảm khổ đau. Vậy mà tự nhiên dù
không xin phép cha mẹ tôi đã tự kéo mình ra khỏi trần gian
đầy máu lửa. Mỗi người chúng ta đều phải tự cứu mình.
Không ai có thể cứu được nghiệp báo của người khác.
Vì thế điều khôn ngoan là nên tự cứu lấy mình. Có kinh
nghiệm thực học, thực tu mới thực hiện được lý tưởng
này. Không ai tự trì hoãn con đường giải thoát của mình
để hy sinh cho người khác. Vì con đường tối diệu nhất
để cứu khổ nhân gian là phải toàn hảo bản thân. Chừng
nào ta chưa viên mãn tu tập thì không thể làm được điều
thiện nào cho cõi đời. Một y sĩ trước nhất phải tự biết
cứu chữa mình đã!
Lần
trước tôi chưa giảng xong một điểm trung yếu trong giáo
Pháp như vầy: Một hôm Ðức Phật đặt vài hạt cát trên
đầu móng tay của Ngài và nói: “Này các Sa Môn! Cát trên
móng tay ta và cát trên địa cầu bao la này, cát nào nhiều
hơn?” Các vị Sa môn trả lời: “Bạch Ðức Thế Tôn số
cát trên móng tay của Ngài không đáng gì so với số cát trên
địa cầu bao la này!”. Ðức Phật liền dạy: “Cũng vậy,
này các Sa Môn, số chúng sanh đã qua đời và tái sanh vào
cảnh giới người, cảnh giới trời đều không đáng gì so
với số chúng sanh đã chết đi từ đời này và được tái
sanh vào cảnh giới súc sanh hay ngạ quỷ”.
Như
quý vị đã biết, trong Ðạo Phật không có địa ngục, không
có sự trừng phạt đời đời. Trong Ðạo Phật luôn luôn
có cơ hội và người ta không bao giờ đánh mất cơ duyên
đó. Bởi vì trần gian này luôn luôn có sự công bằng và
sự công bằng thì không bao giờ thua cuộc. Cho nên khi nghe
rằng chúng sanh bất diệt, vì lòng từ bi cứu khổ họ có
thể tái sinh trong cảnh giới ngạ quỷ, tôi quyết tâm trở
thành Sứ Giả Như Lai. Ðiều này đã đến với tôi do sự
tình cờ, tôi trở thành người con của Phật, tôi nghĩ tại
sao mọi người lại không chia sẻ điều may mắn mà quý vị
đang thọ hưởng vào thời điểm này. Ðó là điều vị kỷ,
chỉ lo cho phận mình an hưởng chân lý tối hậu của chư
Phật, không san sẻ cho số đông người khác chưa từng dược
duyên may như vậy. Cũng vì lẽ đó mà nay chúng tôi mới vân
du sang Mỹ để chuyển hóa đạo lý Phật Pháp cho toàn thế
giới sớm giác ngộ.
Ðức
Phật đã khai thị tứ Diệu Ðế còn gọi là Tứ Thánh Ðế
là bốn trụ cột của Ðạo Phật. Giống như cái bàn cần
có bốn chân. Nhờ vậy Phật Giáo đứng vững trên bốn chân
lý cao quý đó. Chúng ta có 45 tập trong toàn bộ Kinh Phật.
Phần thứ nhất đề cập về Giới Luật, phần thứ hai gồm
các bài giảng và phần thứ ba thuộc Tâm lý học. Bốn Thánh
Ðế là tinh hoa của Phật Giáo và riêng 45 tập này chỉ là
những luận giải về Tứ Thánh Ðế. Vì vậy nếu quý vị
hiểu rõ Bốn Thánh Ðế tức là quý vị đã hiểu toàn bộ
Phật Giáo. Tôi đã giải thích Pháp Tứ thánh Ðế trong bài
giảng đầu tiên, nay tôi sẽ tiếp tục thử nêu lên câu hỏi:
Chánh kiến là gì?
Chánh
kiến là hiểu biết Bốn Thánh Ðế. Chánh kiến là hiểu biết
ba đặc tính của vũ trụ là vô thường, khổ và vô ngã.
Vô ngã nghĩa là không có linh hồn. Trong Phật Giáo không có
linh hồn. Cái để thay thế linh hồn ta gọi là ý thức (tâm
thức). Tâm không bao giờ giống nhau trong hai niệm tưởng liên
tục. Trên thực tế các nhà tâm lý hiện đạt đã tiến đến
điểm chính xác mà Ðức Phật đã đạt được cách đây
2500 năm. Kiến giải cho thấy rằng không hề có cái Ngã nào
bất diệt hay cái TA trường cửu, hay linh hồn bất biến,
mà chỉ có ý thức hằng biến, không bao giở giống nhau trong
hai niệm tưởng liên tục.
Vì
các nhà tâm lý học hiện đại đã thừa nhận rằng không
có một linh hồn bất diệt lại càng dễ hơn cho tôi khi qua
đến các bang để thuyết giảng về Ðạo Phật, bởi vì đất
canh tác đã chuẩn bị sẵn sàng. Họ đã nhất trí rằng không
có linh hồn thường hằng. Vì thế họ sẽ hiểu được triết
lý Vô Ngã của Ðức Phật. Tất cả các pháp đều vô thường
(biến đổi). Tất cả các pháp đều đưa đến đau khổ.
Tất cả các trạng thái ý thức (tâm linh) đều vô ngã (không
có thực thể). Chánh kiến là hiểu biết nguồn gốc và sự
hủy diệt của vạn pháp, tiến trình như sau:
1)
Vô minh là nhân của Hành.
2)
Hành là nhân của Thức.
3)
Thức là nhân của Danh Sắc.
4)
Danh sắc là nhân của Lục xứ.
5)
Lục xứ là nhân của Xúc.
6)
Xúc là nhân của Thọ.
7)
Thọ là nhân của Ái.
8)
Ái là nhân của Thủ.
9)
Thủ là nhân của Hữu.
10)
Hữu là nhân của Sanh.
11)
Sanh là nhân của Lão.
12)
Lão là nhân của bệnh, sầu, bi, khổ, ưu não.
Vô
minh là nhân của sinh và khổ, vô minh là nguồn gốc của vạn
pháp. Diệt trừ vô minh là tiêu trừ vạn pháp, diệt trừ
vô minh đưa đến chấm dứt sinh và khổ.
Vô
minh là kẻ tạo ra trần gian này. Mara hay Ma vương là kẻ sáng
tạo thế gian. Mara có nghĩa là kẻ cám dỗ. Mara không phải
là ma quỷ như Phật Giáo thường nói đến mà Mara là Trời
khát ái. Vị đó là trời. Loại trời nào? Ðó là Trời khoái
lạc, sáu giác quan. Thế giới là động chứ không phải tịnh.
Ðây là bài học hóa lý và toán. Thế giới không bao giờ
giống nhau trong hai niệm tưởng liên tục.
Mỗi
người đang tạo ra thế giới cho riêng mình hàng triệu lần
trong mỗi khoảnh khắc phút giây. Tất cả đang bừng cháy,
tất cả đang bốc lửa. Cái gì đang cháy? Mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý. Chúng đang bừng cháy với ngọn lửa tham, sân, si,
sinh tử và phiền não. Do vậy toàn thế giới này đang bốc
cao ngọn lửa si mê. Tại sao? Vì sáu giác quan đang bừng cháy.
Nếu ta có khả năng dập tắt được ngọn lửa của sáu giác
quan hay làm cho chúng được thanh tịnh bằng cách tu tập điều
phục bản ngã, không đổ thêm dầu mới vào ngọn lửa, tự
nhiên nó sẽ tắt lịm. Vậy thì ta phải làm gì? Ta phải tưới
nước (cam lồ) vào lửa, nó sẽ bị dập tắt Bấy giờ bạn
sẽ tận hưởng niềm an lạc vô biên gọi là Niết Bàn tối
thượng.
Có
người nói rằng thế giới mà chúng ta đang ở hôm nay đã
được tạo nên trong 6 ngày. Phật tử chúng ta cảm nhận rằng
đời là đau khổ–Dukkha– nó không dành cho 6 ngày để tạo
nên thế giới này. Chúng ta đang tạo ra thế giới trong từng
mỗi phút giây. Như tôi đã từng nói trước đây, thế giới
đang biến đổi. Và vì nó đang biến đổi nên ta nói nó đang
được tạo nên và đang bị hủy diệt trong từng mỗi phút
giây. Vì biến đổi có nghĩa là sinh diệt liên tục, chết
rồi tái sinh như ngọn lửa. Chừng nào chất liệu tham ái
còn hiện hữu thì ngọn lửa vẫn tiếp tục bừng cháy. Hãy
nhớ rằng, thế giới chỉ là một tiến trình, một tiến
trình đang hình thành, đang trở nên. Và tiến trình đó cứ
tiếp tục cho đến khi nào nguyên nhân của nó còn đủ duyên
hiện hữu. Khi nhân đã bị dập tắt thì thế giới không
hình thành. Dập tắt trần gian (đau khổ) này quả là thiện
pháp và tạo ra trần gian (khổ lụy) này là bất thiện pháp.
Bởi vì một khi chúng ta tận diệt được sự đau khổ của
hiện hữu thì chúng ta mới hưởng được sự an lạc Niết
Bàn tối thượng.
Chúng
ta càng thích thỏa mãn con mắt, chúng ta lại càng muốn nhìn
nữa cho mãn nguyện. Chúng ta càng muốn thỏa mãn lỗ tai, chúng
ta càng muốn nghe thêm nữa, càng thích thỏa mãn cái lỗ mũi,
càng muốn ngửi hoài. Không bao giờ mãn nguyện. Chúng ta không
bao giờ hài lòng khi thấy, nghe, ngửi...Khi ta vui hưởng nhiều
chừng nào tốt chừng nấy thì sự hưởng thụ ấy lại càng
trở nên một xiềng xích khổ đau.
Nếu
bạn bắt đầu thọ thực, món ăn ngon nhất trên trần gian
này, nhưng một khi no bụng rồi mà buộc ăn thêm lại là một
thứ khổ đau nữa. Thái Tử Tất Ðạt Ða sống êm ấm trong
hoàng cung, Ngài tận hưởng những lạc thú trong 29 năm đầu.
Sau thời gian hưởng thụ đầy đủ các khoái lạc trong kiếp
người, cuộc sống càng vui sướng càng làm cho Thái Tử chán
nản và trầm tư về thân phận chúng sanh. Và vì vậy Thái
Tử đã xuất gia, tìm thấy một nguồn khoái lạc khác của
Niết Bàn tối hậu. Bởi vì đó là niềm an lạc hạnh phúc
cao thượng nhất. Có điều là ta không bao giờ tạo ra được
Niết Bàn. Những gì ta phải tìm là tận diệt tiến trình
biến đổi bằng sự tu tập trui rèn trí tuệ, dập tắt tham
ái. Trí tuệ loại trừ sự sinh và cống hiến Niết Bàn tối
diệu.
Ta
thường nêu câu hỏi: mục đích của cuộc đời là gì? Là
thanh tịnh bản ngã, làm trong sạch tâm thức. Cuộc đời coi
như thất bại nếu tâm thức không được tịnh hóa. Cuộc
đời được gọi là thành công nếu tham ái được tận diệt.
Họ nói: này các bạn thanh niên, điều gì đưa đến lợi
lạc cho con người nếu người đó chiếm được toàn thế
giới mà lại đánh mất phẩm chất của mình? Thành công hay
thất bại, vinh quang hay ô nhục được đánh giá bằng sự
được hay mất nhân cách của mình. Bởi vì đạo hạnh của
con người khiến cho người đó có tất cả ngoài ra không
có cách nào khác hơn được.
Người
ta vẫn cho rằng người thành công trong đời là người tạo
ra được một triệu đô la, nhưng trong Phật Giáo thì không
phải vậy. Nến vị đó tạo được một triệu đô la mà
đánh mất phẩm chất đạo hạnh của mình thì vị đó là
người loạn trí nhất trên đời. Mặt khác, nếu một người
không đạt đươc một triệu dô la mà đạt được phẩm chất
đạo hạnh, vị đó mới được đánh giá là người đắc
thắng trong đời. Thắng không phải là sự đo lường bằng
của cải đã tích lũy mà là sự kết tập vun bồi đạo hạnh,
nhân cách con người. Cho nên đừng bận tâm về tiền tài
mà nên quan tâm về đạo hạnh. Chính nó là nguồn tâm thức
an lạc trợ duyên cho giác linh trong lúc lâm chung tử biệt.
Bởi
vậy trước khi muốn làm điều gì ta phải tự vấn mình:
điều mà ta sắp thực hiện đây sẽ làm tăng hay giảm phẩm
chất đạo hạnh? Nếu câu đáp là có tác hại, làm suy giảm,
thì ta nên tránh. Nếu câu trả lời là làm tăng trưởng nhân
cách đạo hạnh thì ta cứ dũng cảm tiến hành. Bạn không
có gì phải lo sợ về những hành động làm tăng trưởng
phẩm chất đạo hạnh của mình, mà chỉ sợ làm suy giảm
phẩm hạnh cao quý vốn có của ta. Bởi vì như tôi đã nói
khi trước, thành công hay thất bại chỉ được đánh giá
bằng toàn bộ phẩm chất đạo hạnh của con người. Mục
đích cuộc sống con người không có gì ngoài sự thăng hoa,
phát huy nhân cách, đạo hạnh của mình. Ðừng nghĩ rằng
mục đích của đời người là sống thỏa mãn sáu giác quan,
mà chủ yếu là thành tựu tài sản tinh thần có nghĩa là
sự phát huy phẩm hạnh cao cả nhất cho đến khi nó tràn dâng
khắp nơi.
Ðức
Thế Tôn đã là tấm gương mẫu mực về đạo hạnh siêu
thế, phẩm hạnh vô song của Ngài đã tràn dâng tỏa khắp
mọi nơi làm tịnh hóa thế giới 25 thế kỷ qua và vẫn tiếp
tục tịnh hóa thế giới trong nhiều thế kỷ tiếp theo để
đi đến đỉnh cao rạng rỡ nhất và hào quang chân lý soi
sáng khắp nhân gian; con người được một cơ duyên hy hữu
nỗ lực toàn hảo đời mình.
Ðức
Thế Tôn quả là một bậc y sĩ vĩ đại nhất trần gian này,
bởi vì Ngài đã khai thị sinh lộ (con đường), cứu nguy ba
chứng bệnh nan giải của chúng sanh là Tham(Lodha), Sân(Dosa),
và Si(Moha). Ngài cho ba loại thuốc:
1)
Bố thí: diệt trừ tham.
2)
Giới hạnh: diệt trừ sân.
3)
Thiền định: diệt trừ si (vô minh).
Con
đường đưa đến sự giàu có là gì? Diệt trừ lòng tham
bằng cách bố thí. Hãy cho! Cho là nhận. Không cho là không
nhận. Hành động và phản ứng đều bằng nhau và đối diện.
Người sinh ra bị nghèo khổ là vì kiếp trước họ quá keo
kiệt. Người sinh ra được giàu sang là vì trong kìếp trước
họ vốn rộng lượng, ưa bố thí. Thế nên chớ có ganh tị
với người giàu sang, bề thế sự nghiệp; khi vị đó đang
lái một chiếc xe hơi lộng lẫy đắt giá. Hãy bố thí, vì
khi làm như vậy bạn cũng sẽ trở thành giàu có trong tương
lai. Mua một vé số sẽ không dễ gì làm cho bạn trở nên
giàu có. Bố thí là con đường chắc chắn phú quý mai sau.
Con người thông thường có tinh thần cờ bạc, tất cả đều
thích tạo một cơ may bất ngờ. Họ tin rằng họ có thể
trở nên giàu sang qua một đêm giản dị bằng cách mua một
vé số 1 hay 2 đô la, nhưng rồi họ chỉ gặp toàn sự bực
mình vì không bao giờ trúng số cả. Vì vậy ta không thể
nào trở nên giàu có chỉ nhờ mua một vé số, nhưng đảm
bao nhất vẫn là vé số do Ðức Phật ban cho, nghĩa là bố
thí sẽ được đáp ơn. Cho là nhận. Nên nhớ rằng bố thí
giống như trồng một hạt giống trên đất, nếu bạn gieo
hạt giống tốt trên đất lành cây sẽ lên tươi tốt và
trái quả sum xuê. Nếu hạt giống tốt gặp đất lại không
tốt, quả trái sẽ ít hơn. Vì vậy nếu bạn bố thí cho người
nào không xứng đáng nhận vật bố thí đó dĩ nhiên bạn
không thể kỳ vọng một mùa gặt huy hoàng.
Nhưng
nếu bạn thành tâm cúng dường Ðức Phật, Chư Bồ Tát Thánh
Tăng, bạn chắc chắn sẽ nhận được phần thưởng cao quý
nhất. Thế nên bố thí khéo thì đương nhiên sẽ gieo trồng
được những hạt giống siêu xuất trên mảnh đất phì nhiêu
thuận duyên nhất để thu hoạch vụ mùa công đức cao thượng.
Ðức Phật là người bố thí trí tuệ, ban cho tri kiến, là
người bố thí thật sự nhằm diệt trừ tham ái. Bởi vì
dù bạn bố thí cho ai đi nữa, dù bạn gieo một hạt giống
trên đất cát đá, ít nhất hành động bố thí này chính
là sự xả bỏ và nhờ bố thí, ban cho như vậy bạn mới
tiêu trừ được tham ái. Hãy nhớ rằng chiến tranh đặt biệt
đều bắt nguồn từ lòng tham. Chính lòng tham vô tận này
không thể nào dập tắt được. Càng thu hoạch ta càng muốn
thu hoạch thêm. Càng kiếm được tiền ta càng muốn kiếm
tiền thêm. Càng tước đoạt của ai ta càng muốn tước đoạt
thêm. Ta không bao giờ thỏa mãn. Khi một người chinh phục
toàn thế giới, sau đó ông ta lại muốn chinh phục mặt trăng,
sau cùng lại muốn chiến thắng cả mặt trời. Chẳng bao giờ
thỏa mãn lòng tham muốn ngự trị, nhưng có một điều mãn
nguyện là hình thành được chứng nghiệm đối nghịch–là
sự từ bỏ.
Khi
ta từ bỏ các vật vô thường dễ tan vỡ trên trần gian này,
ta sẽ được món quà Niết Bàn thường trụ bất diệt. Khi
từ bỏ sự vật dễ hư hoại (pháp vô thường) trên trần
thế này ta sẽ được món quà Niết Bàn bất diệt. Nếu tham
ái được khắc phục, ta sẽ hưởng được tâm thức an lạc
như Ðức Phật đã chứng đạt. Khi còn ở hoàng cung, Ngài
không thể dập tắt được ngọn lửa tham ái của chính mình,
Ngài cũng không thể diệt trừ được những khao khát lạc
thú. Chính khi Ngài cương quyết viễn ly, đoạn tuyệt mọi
cám dỗ, Ngài mới chấm dứt được tất cả mê vọng.
Trong
Kinh phân biệt vật cúng dường có đoạn ghi: “Ở đây này
Anan phước quả đạt được do đem của thí cho một con vật
gấp 100 lần công đức; đem cho một thường dân không có
đạo hạnh được 1000 lần công đức; đem cúng dường một
Thánh Tăng đang tu tập thánh Ðạo thì được vô lượng công
đức không thể nghĩ bàn. Huống gì những cấp bậc tu tập
cao hơn thì công đức không thể có lời nào diễn tả nổi.
Huống gì là Thánh giả đã tìm ra chân lý như Ðức Phật–bậc
Giác Ngộ tối thượng lại càng không thể kể hết công đức
của người thí chủ cúng dường đó.”
Ðiều
này ý muốn nói nếu bạn đem một ly nước bố thí cho một
con chó, bạn sẽ nhận lại 100 ly nước về sau. Nếu bạn
đem một ly nước bố thí cho một người dân thường, bạn
sẽ nhận 1000 ly nước về sau. Nếu bạn đem một ly nước
cúng dường cho một vị Thánh hay vị Alahán thì phần hồi
hướng sẽ vô tận. Thế nên đây là một bảo hiểm về mặt
tinh thần cao thượng nhất, bởi vì bố thí hay cúng dường
một ly nước mà bạn có thể nhận lại rất nhiều ly nước.
Vì lẽ đó ta nên đầu tư vào cuộc xổ số tinh thần hơn
là cuộc xổ số thông thường không mấy hy vọng.
Làm
thế nào để trở nên đẹp đẽ? Phương cách gì để có
được sắc đẹp? Hãy diệt trừ sân hận bằng tình thương.
Thực hành 5 học giới là đầy đủ tình thương.
1)
Không sát hại và tàn bạo sinh vật (tránh ác) mà phóng sanh
cứu mạng (làm lành).
2)
Không lấy của không cho (tránh ác) mà cứu khổ (làm lành).
3)
Không được có những thèm khát nhục dục hay tà dâm (tránh
ác) mà khuyên giữ đạo lý thủy chung (làm lành).
4)
Không nói láo, nói chuyện tầm phào, chia rẽ, ác khẩu (tránh
ác) mà nói đúng thực tế, nói đoàn kết, ôn hòa, nhã nhặn,
có văn hóa (làm lành).
5)
Không uống ruợu và các chất say tương đương kể cả ma
túy, cờ bạc, đàng điếm (tránh ác) mà thận trọng giữ
gìn thân thể tráng kiện, tâm trí minh mẫn để khỏi mê mờ
vi phạm các giới khác (làm lành).
Khi
còn là một tín hữu của Thiên Chúa Giáo La Mã, tôi được
dạy 10 điều răn và hiện nay khi tìm kiếm trong 10 điều răn
tôi vẫn không thấy có điều răn nào dạy: “các con không
nên uống rượu”.
Vì
vậy tôi hết sức vui mừng được trở thành một Phật tử
mà chỉ thọ trì có 5 giới thay vì 10 điều răn. Xét ra 5 giới
còn hoàn hảo và cô đọng hơn 10 điều răn: Trong Phật Giáo
không có điều răn nào; bởi vì không có ai ra lệnh cho chúng
ta cả. Ðức Phật chỉ khuyên bảo chúng ta thọ trì 5 học
giới chứ không có lệnh nào hay khuyến cáo nào. Chúng ta hoàn
toàn tự do. Chúng ta được đối xử như những triết gia
chứ không phải con nít.
Giống
như những triết gia, chúng ta hiểu biết điều gì đúng, điều
gì sai. Một khi bạn được chỉ cho thấy con đường chân
chính của mình, nếu bạn có kinh nghiệm, bạn sẽ giữ gìn
chánh đạo mà không sợ bị cưỡng ép bằng bất cứ một
đe dọa hình phạt nào. Vì vậy vốn có khuynh hướng khoa học
và triết học, tôi đương nhiên trở thành người con Phật;
bởi vì tôi không muốn bị xử lý như một đứa trẻ nít
mà là một người lớn. Trong Phật Giáo chúng ta đứng vững
trên đôi chân của chính mình, chúng ta thực hành lòng tự
tin. Ðức Phật là bậc Ðạo Sư chỉ đường, còn chúng ta
là những hành giả đi trên con đường đó.
Con
đường nào đưa đến sắc đẹp? Hãy mở rộng lòng yêu thương,
lòng yêu thương ban cho sắc đẹp. Lòng yêu thương là mỹ
phẩm đắt giá nhất. Sự sân hận đưa đến xấu xí. Xấu
xí là cơn giận dữ kinh niên. Một thử nghiệm thực tế để
chứng minh điều này. Hãy chọn một người đẹp tlai, đánh
bất ngờ đằng sau lưng anh ta một cú đấm thật mạnh. Hãy
xem lập tức gương mặt anh ta trở nên giận dữ và xấu xí
làm sao. Cùng lúc đó bạn thấy sự giận dữ làm anh ta xấu
xí. Cơn giận làm thô kệch dị tướng con người.
Bạn
thấy đó, lập tức giận dữ biến sắc đẹp thành xấu xí
qua thử nghiệm này–có điều hơi nguy hiểm, bởi vì nếu
bạn cố thử nghiệm đối với anh ta, thì anh ấy cũng có
thể làm một cuộc thử nghiệm như vậy với chính bạn. Vì
thế, thay vì tạo một thử nghiệm thực tế, bạn có thể
áp dụng lời của tôi là thử nghiệm vào chính bản thân
mình. Chúng ta hãy tràn ngập lòng yêu thương nếu bạn muốn
được sắc đẹp, bởi vì lòng yêu thương là mỹ phẩm tuyệt
hảo nhất.
Sau
chiến tranh, hầu hết chúng ta đều bị suy liệt mọi mặt.
Do sự kiện đó mà người ta tiêu phí quá nhiều, thay vì sử
dụng tiền của để xây dựng trường đại học và những
viện nghiên cứu trọng yếu, họ lại thích sử dụng đồng
tiền để mua vũ khí. Thế nên những gì chúng ta phải làm
là phải cố gắng thực hiện cuộc thử nghiệm đối diện.
Nghĩa là cổ vũ lòng yêu thương, bởi vì nếu ta sinh ra bị
xấu xí, cho dù gương mặt ta có khó nhìn thế nào đi nữa,
nếu ta rèn luyện lòng yêu thương vô lượng thì lòng đại
tứ bi này sẽ ban cho ta vẻ duyên dáng thầm kín phát lộ bên
ngoài và tỏa ra toàn bộ chân tướng với vẻ duyên dáng nơi
khuôn mặt. Chúng ta có thể gặp một người đẹp trai nhất,
vậy mà nhiều khi ta không bị lôi cuốn, bởi vì vẻ đẹp
của anh ta có thể bị méo mó, thô kệch do lòng tự phụ kiêu
căng về vẻ đẹp cúa mình. Ta có thể thấy một người xấu
xí mà tràn đầy lòng yêu thương vô tận, bạn thấy anh ta
thật hấp dẫn làm sao, và lôi cuốn được mọi người.
Chúng
ta có thể chọn những tấm gương sống động trong lịch sử.
Nếu bạn nhìn về lịch sử Hy Lạp, hiền giả Socrate là người
thông thái nhất Hy Lạp nhưng không minh triết nhất thế giới
như Ðức Phật dù cả hai cùng thời đại. Thật là kinh khủng
làm sao trước Thiên Chúa giáo 600 năm, chúng ta lại có những
bộ óc siêu phàm như Ðức Phật ở Ấn Ðộ, Khổng Tử, Lão
Tử ở Trung Quốc, Socrates, Platon và những vị khác ở Hy Lạp.
Dù sao trí tuệ của Phật là trí tuệ tâm linh còn trí tuệ
của Socrates có khuynh hướng vật chất. Tuy nhiên trí tuệ
của Socrates tỏa ra lòng thương vô hạn nên nhờ vậy đã
thu hút được nhiều người.
Hiện
nay bạn cứ nhìn vào tấm gương của thánh Gandhi tại ấn
Ðộ, tuy Ngài không đủ duyên để sinh ra có khuôn mặt đẹp
như bạn biết rõ đó, nhưng với tinh thần Ahimsa bất bạo
động của Ngài và bằng Giáo Pháp của Ðức Phật, Ngài đã
đạt được vẻ duyên dáng kỳ lạ, vẻ đẹp đã làm cho
Ngài lôi cuốn được dân Ấn Ðộ và những người khác trên
thế giới.
Vì
lẽ đó chúng ta chớ nên tin vào những mỹ phẩm hóa trang,
chúng chỉ tạo nên những sắc đẹp giả dối, không phải
là vẻ đẹp chân thật. Chúng ta chỉ có thể trau dồi sắc
đẹp bằng mỹ phẩm do chính Ðức Phật ban tặng. Mỹ phẩm
này vô giá nhưng đưa đến sắc đẹp chân thật mà người
ta gọi là vẻ duyên dáng ở phương đông nhưng cũng gọi là
vẻ quyến rũ ở phương tây.
Con
đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn
diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn
pháp. Không có cái ngã nào biệt lập. Ðoạn diệt lòng vị
kỷ sẽ trở nên vô ngã. Người ta sinh ra bị ngu dốt là do
kiếp trước họ không bao giờ quan tâm đến tri kiến. Họ
luôn luôn kết thân với bạn bè thiếu trí tuệ, kể cả ngay
lúc bất chợt gặp một vị Thánh Tăng họ cũng không bao giờ
băn khoăn đặt câu hỏi để nhờ quý Ngài khai thị các nghi
vấn của mình.
Còn
người sinh ra được khôn ngoan là nhờ kiếp trước họ luôn
luôn tìm cầu tri kiến bằng cách tham học với các bậc Thánh
Tăng. Cái gì đúng, cái gì sai, điều gì lầm lỗi, điều
gì vô tội, điều gì nên tu tập và điều gì không nên; hành
động nào đưa đến hạnh phúc an lạc; hành động nào đưa
đến bất hạnh và đau khổ. Hãy tìm, bạn sẽ thấy rằng
bằng cách kiên trì tìm cầu tri kiến bạn sẽ đạt được
tuệ giác.
Khi
tham, sân, si đã đoạn diệt thì pháp hạnh bố thí, trì giới,
thiền định đưa đến kết quả vô tham, vô sân, vô si gọi
là Niết Bàn tối thượng. Khi ta đến diện kiến một nhà
Sư, ta không phải đến để nhìn mặt vị đó mà phải nhìn
thấy được tâm thức của vị đó. Nhưag cách nhìn tâm người
không phải chỉ giữ im lặng để chiêm ngưỡng mà phải hỏi
Ðạo, vấn Pháp để tìm ra nguyên nhân của những sự việc
nan giải và cần cầu Pháp học để có thể đoạn diệt điều
ác.
Phải
nhớ rằng Chân lý là tài sản cao quý nhất. Một người có
thể giàu sang, nhiều tiền bạc nhưng nếu vị đó kém trí
tuệ thì vẫn là kẻ bần cùng thua kém; ngược lại một người
có thể nghèo kém tiền của nhưng lại là hàng trí giả, vị
đó vẫn là bậc giàu sang được trọng nể.
Trong
vài phút qua mà quý vị có thể học được làm thế nào để
trở nên giàu có–bằng sự rộng lòng bố thí; trở nên sắc
đẹp bằng tấm lòng chan hòa yêu thương và trở nên khôn
khéo bằng sự tinh tấn tìm cầu Chân lý. Vì vậy tôi cứ
tưởng tượng rằng sau khi học được cách trở nên giàu
có, sắc đẹp và khôn khéo trong một thời gian ngắn, bạn
sẽ hưởng được tiền của xứng đáng đó. Dù sao bạn cũng
cần nhớ rằng điều đó không đủ để gọi là biêt cách
làm giàu, làm đẹp, làm cho khôn ngoan hơn người nếu bạn
không có toa thuốc và lại không uống theo toa đó. Ðương
nhiên thuốc sẽ không có giá trị gì nếu bạn chỉ cầm thuốc
và ngắm nghía mãi thay vì uống liền.
Trong
Phật Giáo món ăn mà ta phải dùng là thực phẩm tâm linh và
tinh thần, bởi vì toàn thế giới đang đau khổ vì thiếu
thực phẩm tinh thần, đó là nguyên nhân của chiến tranh.
Chúng ta phải thường dùng món ăn tinh thần hàng ngày. Thử
nghĩ nếu chúng ta chỉ mất một bữa ăn thường thôi thì
chắc chắn chúng ta sẽ la hét quạu quọ đủ thứ, còn khi
mất một bữa ăn tinh thần thì chúng ta lại hoàn toàn hài
lòng.
Một
hôm khi đang thuyết giảng trong một trường học, một số
nam sinh chợt nhớ có trận đấu bóng đá đang diễn ra. Chúng
liền rời khỏi buổi giảng đang nửa chừng để tham dự
trận đấu. Sau khi chúng đi khỏi tôi mới nói với số thính
giả còn lại rằng trận đấu của chúng ta là trận đấu
tâm linh và chúng ta phải học cách nào để đá tung quả bóng
Vô Minh để tận hưởng niềm an vui toàn thắng Niết Bàn.
Chúng ta dùng thức ăn vật chất trong sạch thì tại sao ta
lại không dùng món ăn tinh thần tinh khiết. Nếu bạn ngỏ
lời với hiệu sách và hỏi sách nào bán giá cao nhất, ông
ta sẽ trả lời rằng loại sách càng bẩn thỉu thì giá bán
càng cao nhất. Nói cách khác, người ta thích món ăn loại
văn chương ghê tởm chớ không thích loại đúng đắn. Vì
vậy chúng ta nên dùng món ăn tinh khiết cho tâm thức. Món
đó là “Kinh sách Phật”. Nếu bạn ham đọc sách Phật ,
tâm ý bạn sẽ được thuần hóa, minh triết. Nếu bạn đọc
loại văn chương uế nhiễm thì tâm thức bạn sẽ trở nên
hôi tanh như đống rác. Nhân nói chuyện về thức ăn khiến
tôi nhớ đến mẩu chuyện như sau: xưa có hai vợ chồng và
đứa con cùng vượt qua sa mạc, khi tất cả đến nửa đường
sa mạc thì bỗng lương thực khô cạn, và trong lúc tuyệt
vọng không biết giải quyết cách nào, người chồng liền
đề nghị với vợ: “Này hiền thê ! Trong tình thế nguy nan
này, một người chết thì tốt hơn cả ba đều chết: Thế
nên đây là cơ hội duy nhất chúng ta ăn thịt đứa con của
chúng ta, có vậy chúng ta mới sống và vượt qua nửa đường
sa mạc còn lại. Nếa không làm vậy thì cả ba đều chết”.
Và rồi với nước mắt đầm đìa thương tiếc, họ giết
và ăn thịt đứa con. Không phải họ ăn thịt con để được
to mập hay dễ nhìn hoặc để trở thành một võ sĩ hay nhà
đô vật, mà chỉ vì muốn vượt qua sa mạc, duy trì mạng
sống chứ không mong gì hơn.
Tương
tự Ðức Phật đã dạy: này các Sa Môn, trong mỗi đĩa thức
ăn ta dùng đều có cái chết. Tất cả đều là xương thịt
của con cái mà chúng ta đành đắm lệ nhai nuốt để phương
tiện vượt qua biển khổ luân hồi mong tới được bờ bên
kia giải thoát. Thế nên chúng ta chỉ ăn để sống chứ không
phải sống ăn.
Không
phải ăn vì lòng tham dục mà chỉ ăn để có sức khỏe vững
bước trên đường Chánh đạo. Tại La Mã có số người ăn
nhậu từ sáng đến tối, họ luôn luôn có mặt trong các quán
rượu và ăn uống bội thực đến nỗi phải ói mữa tại
phòng tắm và rồi sau đó phải hối hả trở lại bàn nhậu
và khởi sự trở lại một lần nữa. Thật bi thương khổ
lụy.
Ðó
là nguyên nhân đưa đất nước đến chỗ suy sụp. Thế nên
nếu bạn không muốn đất nước mình đi xuống, bạn nên
có ý thức ăn để sống chứ không phải sống để ăn, bởi
vì thức ăn giống như món y dược có công năng làm tỉnh
lặng chứng bệnh đói khát của chúng sanh.
Nhân
đây tôi muốn nói qua về món ăn tinh thần đầu tư chất
xám. Quý vị hãy dũng mãnh cố gắng thiết lập một trường
Bồ Ðề ở Singapore. Chúng ta nên cổ vũ thực hiện cho được
một cơ sở giáo dục Phật học (trường Bồ đề). Bởi vì
nếu chúng ta gởi con em vào trường ngoại đạo là mở đường
cho họ có dịp bắt cóc tâm thức các con em chúng ta. Họ rất
muốn nắm giữ tâm hồn trẻ thơ nhỏ dại và dễ uốn nắn.
Tôi dám chắc rằng nếu như người ta cố ăn trộm thân xác
con em mình thì quý vị sẽ đau khổ rất nhiều, nhưng nếu
họ ăn trộm tâm linh con em mình thì quý vị lại điềm nhiên,
chớ không hề nhận ra đó là một đại họa của gia đình,
cho họ hàng, xóm làng, đất nước, quê hương.
Nếu
quý vị yêu thương con em và tín ngưỡng của mình thì quý
vị phải làm sao thấy được con em của mình thông suốt nền
giáo dục Phật học, có vậy tôn giáo của quý vị mới phát
triển, con em của mình mới có một tương lai Phật học sáng
chói, bởi vì trẻ em sẽ tránh sát hại súc vật và từ bỏ
uống rượu.
Ở
Tây phương người ta nói bắn giết thú vật là một hình
thức thể thao và những ai giết giỏi nhiều con vật được
gọi là nhà thể thao quán quân. Vì vậy quý vị nên cho con
em mình theo học ở các trường Phật học. Ở Penang (Mã Lai)
có nhiều trường Phật học nổi tiếng. Tôi vô cùng phấn
khởi khi đề cập đến các học sinh ở trường đó. Vì thế
hãy nhớ rằng chân lý chỉ thấm nhuần khi nào nó phát triển.
Khi nó ngừng không phát triển, nó sẽ ứ đọng và suy tàn.
Tín ngưỡng sẽ bế tắc và diệt vong nếu nó không phát huy.
Phương pháp làm cho nó trưởng thành và sống mãi là thấy
các con em của quý vị mãi mãi là Phật tử thuận thành. Tôi
sắp sang hoằng Pháp bên Mỹ để nâng cao số Phật tử trên
khắp thế giới, đáp lại với số nhà truyền giáo nước
ngoài đã đến đây. Tôi còn nhớ ngày xưa Java là một nước
Phật Giáo. Quý vị có thể đọc nhiều sách trong đó có đề
cập nhiều ngôi chùa kỳ diệu lừng danh thế giới. Ðừng
cho phép tín ngưỡng của quý vị bị suy tàn do đặt tâm hồn
mềm yếu non trẻ của con em quý vị trong tay những người
không phải là Phật tử. Họ giống như những nhà điêu khắc
dùng đất sét uốn nắn theo mẫu hình của họ. Khi nào thấy
rằng các con em của chúng ta được huấn luyện theo đường
lối của Phật Giáo nghiêm túc thì Ðạo Phật của chúng ta
mới hy vọng phát huy rộng khắp thế giới. Trong những năm
Phật lịch 2500 trở đi, Phật Giáo như một cái dù che kín
vũ trụ thoát khỏi ngọn lửa đau khổ. Khổ đau và khoái
lạc chỉ là một; chúng không tách rời nhau, chính Phật Giáo
đã khai thị con đường giải thoát như vậy.