Mỗi năm xuân về cảnh vật xanh tươi, trăm hoa đua nở, nhà
nhà đều khang trang đón Tết. Để đón chào năm mới, vào những ngày cuối năm người
dân thường có phong tục lau quét nhà cửa
sạch sẽ, dọn dẹp gọn gàng, tươm tất. Công việc được coi trọng là trang hoàng
nhà cửa, bày biện bàn thờ với đủ các loại bánh trái, hoặc sắp xếp mâm ngũ quả
sao cho thật đẹp mắt. Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc.
Nhiều người đi chùa lễ Phật, đi viếng mộ thắp hương rồi thăm cha
mẹ, thân nhân, bà con hàng xóm láng giềng. Có người quan niệm nên đến chùa để
xin lộc đầu năm. Thế là với cầu mong phúc lộc đến với nhà mình, người ta nô nức
đi hái lộc. Lộc có thể là một bông hoa, một cành non ở chùa hoặc chốn tôn
nghiêm, họ hái mang về nhà để rồi chỉ qua một đêm giao thừa nhiều cảnh chùa cây
xanh xác xơ, trơ trụi.
Thực ra đó chính là một tập tục mê tín. Riêng đạo Phật
lấy chánh tín làm nền tảng. Chẳng hạn nghe pháp tức là được lộc, vì lộc này
dùng mãi vẫn còn, dùng hoài không hết. Thái tử Sĩ-đạt-ta đi tìm đạo lý vì Ngài
xem thường của cải vật chất. Còn người trong dân gian thì cho rằng có tiền mua
tiên cũng được, nhưng thực tế ở đời có
những người lắm tiền nhiều của mà vẫn khổ.
Vì vậy, đầu năm chúng ta đến chùa và
chúc nhau những lời lành mạnh tốt đẹp, dùng đạo lý để khuyên bảo nhau sống có
tình có nghĩa, khuyên nhau tu tập vững vàng, từng bước vững chãi thảnh thơi và
ung dung nghe pháp. Đó mới chính là lộc của đầu năm. Để rồi khi trở về với cuộc
sống đời thường của gia đình, chúng ta sẽ có kim chỉ nam cho lộ trình tu tập,
để sống thiện lành, sống tốt và có ích cho mình, cho mọi người. Như vậy chúng
ta mới thực sự làm lợi đạo ích đời, rồi nhờ thế ngày Tết mới có giá trị và tràn
đầy ý nghĩa.
Bên ngoài vạn vật đổi thay, còn
thân thể ta thì lớn dần lên, trưởng thành rồi già nua. Nhân ngày Tết chúng ta
nhìn lại và thấy một năm có 12 tháng, mỗi tháng được cho là một hạt xâu chuỗi,
như vậy một năm có 12 hạt xâu chuỗi, mà đầu năm là lúc chúng ta bắt đầu hạt thứ
nhất của xâu chuỗi. Năm cũ chúng ta đã lần xong hạt thứ 12 rồi và đã tất niên.
Cứ như vậy, vô thường biểu hiện sinh,
già, bệnh, chết như một dòng sông cứ trôi chảy mãi không ngừng. Còn sự vật bên
ngoài luôn biểu hiện sinh, trụ, dị, diệt.
Chúng ta biết một năm có 4 mùa xuân,
hạ, thu, đông. Xuân sang, tiết trời mát mẻ, dễ chịu, khí hậu ấm áp, cây cối đâm
chồi nảy lộc và tràn ngập sắc hoa. Hạ đến, bầu trời xanh thẳm, khí hậu oi nồng
và nóng bức. Thu về rực rỡ nắng vàng, thời tiết dễ chịu, khí hậu mát mẻ. Còn
đông thì rét buốt, gió lạnh, vạn vật thu mình. Riêng với người biết tu, họ vui
xuân trong thâm trầm đạo lý chứ không còn bồng bột đam mê, không còn đánh mất
mình để chạy theo bóng màu của mùa xuân nữa.
Tết đến, xuân về chúng ta đến chùa
để nghe pháp, để hiểu đạo lý, tiếp tục bước vào đời và thấy được những khó khăn
trắc trở ở phía trước mà vượt qua. Mỗi năm nếu chúng ta tu tốt thì dù cho có
gặp phải hoàn cảnh khó khăn chăng nữa thì chính đạo lý sẽ giúp chúng ta vượt
qua gian nan, vất vả của cuộc sống một cách thuận lợi, dễ dàng. Cho đến nghịch
cảnh bức ép chúng ta vẫn có thể vững vàng tiến bước. Kinh Pháp Cú có
câu:
“Như tảng đá kiên cố
Gió cuồng nộ chẳng lay
Lời tán dương, phỉ báng
Không xao gợn đôi mày”.
Nếu tu tập có kết quả, nếu là bậc
trí tuệ thì cho dù ở thế gian gặp khen hay chê, thăng hay trầm, thịnh hay suy,
được hay mất tất cả đều có thể vượt qua mà không bao giờ động tâm, sống tự tại
trong thế giới đầy nhiễu nhương trở ngại.
Nếu nói về hiện tượng đời sống bên
ngoài thì khi mùa xuân đến trăm hoa đua nở, khí trời mát mẻ, lòng người cũng
rộn ràng chào đón mùa xuân. Ai ai cũng giữ vững hào khí, giữ tâm thái tự do
thong dong, thoáng đạt, rộng lượng bao dung. Tất cả những gì đẹp đẽ đều được
biểu hiện. Trong nhà trên bàn thờ Phật, nơi thờ các vị tổ tiên đều thắp đèn
sáng trưng, hoa trái xếp đầy, người người mặc đồ mới, ai ai cũng nở nụ cười,
mọi người gặp gỡ chúc tụng lẫn nhau, tay bắt mặt mừng.
Từ gia đình ra xã hội,
ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hòa, kính già yêu trẻ. Người đi chùa
lễ Phật nghe pháp, tiếp thu được những tinh hoa của nhân loại, hiểu được triết
lý Đông phương, triết lý nhà Phật để chuyển hóa bản thân. Có như thế thì quê
hương sẽ thêm phần tươi đẹp và đất nước sẽ giàu mạnh hơn. Tất cả đều mới mẻ
đúng như ý nghĩa của đêm giao thừa mà mọi người thường nói câu “Tống cựu nghinh
tân” tức là tiễn đưa năm cũ, đón mừng năm mới. Nhưng trong những cái cũ ấy hãy chọn lọc cái nào tốt thì
nhớ giữ lại để duy trì, còn nghinh tân cho năm mới thì không phải cái gì cũng
rước cả, đừng bao giờ rước buồn phiền sầu bi, tham sân si, khổ não, ganh tỵ,
tật đố, ngã mạn vào thân trong năm mới.
Ở đây đêm giao thừa là lúc bỏ cái cũ,
rước cái mới. Chúng ta cần biết bỏ cũ tức là bỏ những cái xấu, có hại cho mình,
cho người. Rước mới là rước những cái hay cái đẹp để duy trì, phát huy, làm nền
tảng cho năm mới, để có cương lĩnh, có
căn bản đón nhận những điều tốt đẹp ở phía trước. Người Phật tử tu tập phải
biết tin sâu nhân quả. Nếu chúng ta nghĩ, nói và làm theo điều xấu thì sẽ gặp
điều chẳng tốt đẹp. Ngược lại, nếu chúng ta biết hằng tỉnh hằng giác để nghĩ,
nói và làm điều tốt đẹp thì chắc chắn sẽ gặt hái những kết quả tốt đẹp. Hiểu và
tin sâu như thế thì trong năm mới chúng ta sẽ là người rất hạnh phúc. Hạnh phúc
ở trong tầm tay chứ không phải tưởng tượng ở nơi xa xôi nào cả.
Có nơi Tết đến, một số đệ tử Phật
lại đi xem bói, coi quẻ, xin xăm, coi chỉ tay, coi chữ ký. Trong kinh Phật
không bao giờ dạy điều này. Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô
thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp. Nhìn sâu, thấy rõ chúng ta mới có
niềm tin để bước vào cuộc đời mà không bị dao động.
Chúng ta có những hoàn cảnh sống
khác nhau, đây chính là biểu hiện của nghiệp lực, có người giàu kẻ nghèo, có
người sang kẻ hèn, người đẹp kẻ xấu, người trí thức kẻ dốt chữ. Tất cả những
hoàn cảnh chánh báo y báo đó được biểu hiện ra không phải là hình thức thưởng
phạt của một đấng thượng đế nào, mà đó là vận hành tự nhiên của luật nhân quả,
tạo ở kiếp trước biểu hiện ra ở kiếp này. Hiểu được như thế, chúng ta sẽ thấy
rằng tương lai tươi sáng đang ở phía trước do chính mình tạo chứ không phải do
cầu khẩn ở một đấng quyền năng nào.
Trong nhân gian, người đời coi
ngày mồng một Tết là ngày quan trọng của đầu năm, còn nhà Phật xem đây là ngày
đánh dấu sự có mặt của một vị Phật đương lai, đó là Bồ-tát Di Lặc, nên mừng
xuân năm mới chính là mừng Xuân Di Lặc. Tết đến xuân về, chúng ta càng khó quên
được khi nhìn thấy nụ cười của Bồ-tát Di Lặc. Ngài tuy bị lục tặc bủa vây nhưng
vẫn luôn tươi cười tràn đầy hạnh phúc. Lục tặc đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Mắt thấy sắc sanh tâm. Tai nghe tiếng
sanh tâm. Mũi ngửi mùi sanh tâm. Lưỡi nếm vị sanh tâm. Thân xúc chạm sanh tâm.
Ý đối với các pháp sanh tâm, thành ra có những chủng tử hữu lậu phân biệt.
Bởi
thế, chúng ta gắng công tu tập để khi tiếp xúc với sáu trần cảnh mà vẫn duy trì
được định lực, không chạy theo bóng màu của trần thế. Để đạt được như thế đòi
hỏi chúng ta phải có một quá trình công phu dày dặn thì mới có thể đạt được
trạng thái thường hỷ và thường xả.
Bồ-tát Di Lặc có bốn đức từ, bi,
hỷ, xả. Năm mới, chúng ta đảnh lễ Ngài là đảnh lễ bốn đức này, bốn đức này
chúng ta đều có thể thực hiện được. Nếu như chúng ta nhìn thấy Bồ-tát Di Lặc
thì chúng ta phải nhớ bốn đức từ, bi, hỷ, xả nơi Ngài để thực hiện tu tập ở
chính bản thân mình. Đó là ý nghĩa ngày vía Di Lặc đầu năm. Nếu chúng ta có
lòng từ bi, chúng ta tùy hỷ và buông xả, không chứa
chấp trong lòng bất cứ điều gì thì chính chúng ta
là hiện thân của Bồ-tát Di Lặc rồi.
Chúng ta không nên nghĩ rằng,
Bồ-tát Di Lặc là nhân vật của quá khứ, càng không nên nghĩ rằng, nếu lễ vía
Ngài thì sẽ được Ngài phù hộ, ban cho những điều ước nguyện, hoặc phù hộ cho
chúng ta mua may, bán đắt hoặc làm ăn phát tài, phát lộc. Nếu chúng ta không lo
tu tập, không tạo nhơn mà chỉ cầu gia hộ, rồi chờ kết quả thì thật là vô lý.
Đạo Phật không phải là đạo cầu xin, nên đầu năm quý Phật tử không nên đến chùa
để van vái cầu xin.
Hiểu được như thế chúng ta sẽ biết vì sao phải vía Bồ-tát
Di Lặc vào ngày đầu năm mà không phải là những ngày trong năm. Bởi vì ngày đầu
năm khi được nhìn hình tượng của Ngài, chúng ta sẽ vô cùng phấn khởi, trong
lòng thoát tục, không còn phiền não và trong năm chúng ta sẽ có được những nụ
cười thoải mái, an nhiên để thường xuyên tu tập bốn đức từ, bi, hỷ, xả.
Từ, bi, hỷ, xả là những gì? Từ là
ban vui, bi là cứu khổ, hỷ là chung mừng, chung vui và ngợi khen khi người khác
được hạnh phúc, tốt đẹp, may mắn, giàu có, hưng thịnh, thì chúng ta cũng vui
theo. Kẻ thù trực tiếp của đức tùy hỷ là ganh tỵ, đố kỵ. Nếu thấy một người khác làm được điều tốt, điều
thiện, được may mắn hạnh phúc mà đem lòng ganh tị tức là đã gieo hạt giống
không tốt vào tâm của mình. Còn nếu gặp người làm điều tốt mà tùy hỷ thì phước
của mình cũng được bằng người đó. Xả là gì? Những trạng thái buồn, vui, thương,
ghét, giận hờn đều lặng lẽ. Cảnh thuận không làm Bồ-tát cao ngạo, Ngài không
thất niệm, Ngài không sanh tâm vọng niệm nên buông xả một cách toàn diện. Một
khi buông xả không còn chứa chấp trong lòng điều gì thì đó là tâm thiền định,
tâm ở trạng thái nhập tĩnh, không còn bóng dáng của vọng tưởng, phiền não.
Vậy
xả là trạng thái lặng yên của tâm thức. Xả là trạng thái không chấp trước.
Chẳng hạn, người tu đạt được trạng thái tâm thiền định hoặc một quả vị gì thì
trạng thái đó, quả vị đó, tâm thiền định đó cũng phải buông xả.
Bồ-tát Di Lặc có nụ cười thoải
mái. Đó là nụ cười tươi tắn, lạc quan, thoát tục và không có bóng dáng của
phiền não, khổ đau. Thân tướng của Ngài biểu hiện sung mãn, tri túc, không buồn
phiền giận hờn thế nhân gì cả. Người thế gian mãi tôn xưng và quý trọng Ngài.
Vào ngày Tết, người Phật tử nghe nhắc đến Ngài thì hết thảy trong lòng đều rất
vui.
Đời nhà Tùy ở Trung Quốc có một vị
xuất cách, vóc dáng mập tròn, bụng to, tai dài, miệng luôn cười vô tư, đó chính
là Bố Đại hòa thượng. Ngài là một thiền tăng, sống thoáng đạt, tính tình rộng
rãi, cởi mở, cuộc sống bất định. Ngài thường rong ruổi khắp nơi, rày đây mai
đó, vây quanh Ngài luôn có mấy đứa trẻ nghịch ngợm, nhưng Ngài rất thương chúng
và coi chúng như con ruột của mình. Người ta chưa bao giờ thấy Ngài tỏ ra buồn
giận phiền não vì khuôn mặt Ngài lúc nào cũng tươi cười. Tình thương của Ngài
phi phàm. Nếu có ai khen chê hoặc phỉ báng, Ngài vẫn nở nụ cười trên môi. Nhiều
người cho rằng Ngài là thiền sư.
Hồi ấy, lúc ở chùa Nhạc Lâm, trong một khu
rừng, trước lúc viên tịch Ngài đã cho gọi tất cả chúng Tăng đến và bảo: “Bây
giờ các ngươi ở lại vui vẻ và ta sẽ ra đi”. Ngài để lại một bài kệ:
Di Lặc thật Di Lặc
Phân thân trăm ngàn
ức
Thường hay chỉ dạy người
Người đời không hay biết.
Sau đó Ngài kiết-già trên tảng đá
ở chùa Nhạc Lâm và thị tịch tại chỗ. Đây chính là Hóa thân Di Lặc. Ngài dùng
Ứng Hóa thân trong các cõi để giáo hóa chúng sanh. Tóm lại, Bố Đại hòa thượng
chính là Ứng Hóa thân của Bồ-tát Di Lặc ở cung trời Đâu Suất.
Trải qua dòng lịch sử, vào thời
Chánh pháp, người ta tạc tượng Bồ-tát Di Lặc có hình ảnh gần giống như Bồ-tát
Văn Thù hoặc Bồ-tát Phổ Hiền. Đến nay thì tượng Bồ-tát Di Lặc lại được tạc rất
giống với hình ảnh Bố Đại hòa thượng. Hình ảnh Ngài có khi đứng cầm bao bố to,
có khi liệng bao bố xuống đất rồi đứng yên, hoặc ngồi lộ ngực có sáu em bé ở
chung quanh. Về sau người đời thấy Ngài là nhân vật kiệt xuất, vì quá thần
tượng và tôn sùng nên người ta tạc tượng Ngài trên tay có thỏi vàng, tay kia
cầm gậy như ý, cổ đeo chuỗi tràng hạt. Theo thời gian, hình tượng Di Lặc ngày
càng phong phú và sinh động. Đến nay, hình tượng Ngài được nhân gian gắn liền
với tiền tài phú quý là đã đi xa với nguồn gốc rồi.
Ngày đầu năm, Phật tử thường lễ vía Bồ-tát Di Lặc để cầu
xin ban cho họ những điều ước nguyện. Nếu hiểu được đạo lý, không làm điều ác,
thường làm điều tốt, lợi mình lợi người thì sẽ an vui, hạnh phúc. Người Phật tử
cần học theo hạnh Bồ-tát với bốn đức từ, bi, hỷ, xả để bản thân và mọi người
cùng được cộng hưởng lợi ích, như câu: Nhứt nhân tác phước thiên nhân hưởng.
Độc thọ khai hoa vạn thọ hương. Nghĩa là: Một người làm phước ngàn người được
hưởng. Một cây nở hoa muôn cây khác được thơm lây.
Nếu có nhiều người quy y giữ giới, hướng về Tam bảo,
tu đúng Chánh pháp, có chánh kiến, đủ chánh tín thì lợi ích nhiều khôn kể xiết.
Nhà nước và chính quyền sẽ bớt lo, đất nước sẽ thái bình, đó chính là góp phần
xây dựng quê hương đất nước. Nếu ai cũng tin vào nhân quả thì làng xóm yên ổn,
hạn chế được tệ nạn xã hội, mọi người đều có lợi ích, có cuộc sống văn hóa, có
tư tưởng lành mạnh, biết tu hành thì đó là điều đáng trân trọng và rất hạnh phúc.
Cho nên chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội vì một kiếp người trôi qua rất mau chóng.
Nếu không biết tu hành theo Chánh pháp, lúc ra đi sẽ theo nghiệp mà thọ sanh
không có ngày dừng.