"Bất Khả Thuyết"
hay "Nói Không Được" ta đã gặp nhiều khi học Phật, không chỉ là Bất khả
thuyết mà còn Bất khả tư nghì, Bất khả đắc, Bất khả thủ, Bất khả...Đã
biết là "bất khả" mà vẫn cứ tò mò truy tìm mọi ngóc ngách, đó là cái
nghiệp của chúng sinh, nhất là người làm khoa học, không dễ tin nếu chưa
được "chứng minh". Điều này quả thật hợp ý Phật. Phật đã chẳng luôn
nhắc nhở ta đừng vội tin, phải thể nghiệm đi cái đã, phải trực tiếp lấy
thân tâm mình làm cái "labo" để mà quan sát ngắm nghía cho thật thấu đáo
đó ư? Phật đã chẳng luôn nhắc nhở ta phải tinh cần, tinh tấn, phải thực
hành, không được lơ là, chểnh mảng đó ư? Thú vị là, khi còn có thể
"thuyết" được thì chỉ mới tới được cái vỏ ngoài, còn tới được chỗ thâm
sâu, cốt lõi bên trong hẳn là phải im lặng, phải ú ớ, phải hỏi một đằng
trả lời một nẻo, hoặc tốt hơn cả là phải "tu rị, tu rị...", nghĩa là "im
lặng, im lặng....". Tóm lại là nói không được, là bất khả thuyết!
Khi
Phật phát hiện ra con đường dẫn đến an vui, hạnh phúc, chính Ngài cũng
ngại ngùng không muốn tiết lộ, không muốn bày tỏ vì con đường quả thật
là tuyệt diệu nhưng lạ lùng quá, ngược đời quá khó có ai tin, có khi còn
gây phản ứng ngược. Mãi sau Ngài mới chịu nói ra, và dĩ nhiên rất đắn
đo, nói từng phần, với mỗi người một cách khác nhau, tuỳ đối tượng. Sau
này thường khi chứng ngộ rồi, các thiền sư mới chịu chọn một vài học trò
để truyền đạt, mà cũng ít chịu truyền, vì truyền không dễ, bởi nhiều
điều "nói không được". Học trò phải quan sát trực tiếp ở thầy và phải
thực hành miên mật. Có học trò uyên thâm mà không tới đâu cả, loay hoay
không thoát; có học trò giã gạo, nấu cơm, không biết chữ mà đại ngộ. Học
giả trí thức, có bằng cấp cao cũng chẳng đến đâu, còn người hàng thịt,
một hôm buông dao thành Phật. Cho nên tin không dễ.
Trong
kinh Kim Cang, Phật và Tu Bồ Đề, hai thầy trò đối đáp như kiểu "role
play", sắm vai để giảng dạy thật hấp dẫn - trước đó, Phật đã lặng lẽ
"demonstration" (trình diễn) một màn rất ấn tượng là bưng bình bát đi
khất thực trong thành Xá Vệ nhưng không phải ai trong hội chúng cũng
nhìn ra. Có lúc, hình như người học trò Tu Bồ Đề giả bộ hoang mang,
không tin người đời sau có thể hiểu nổi và thực hành được những lời Phật
dạy thì Phật quở: "Chớ nói vậy! Ông chớ nói vậy?". Người đời sau còn
"thông minh" hơn, còn nhiều điều kiện hơn, dĩ nhiên là còn nhiều khổ đau
hơn để mà hiểu Phật. Lạ lùng là nhiều người trẻ ngày nay hiểu Phật rất
nhanh - không phải là cái tin dị đoan mê tín đâu, mà tin một cách khoa
học - như là một phương thuốc chữa bệnh tâm thần cho thời đại, giúp cho
con người không dấn mình thêm vào những nỗi khổ đau, ưu phiền, sợ hãi;
giúp con người hạnh phúc hơn; tạo một môi trường xã hội tốt đẹp hơn và
môi trường thiên nhiên an lành hơn. Những người trẻ thậm chí mới đôi
mươi, đặc biệt ở phương Tây ngày nay có vẻ hiểu Phật, thấm Phật và hành
Phật hơn cả ở phương Đông.
Nỗi
khổ đau của kiếp người thật vô vàn, và dĩ nhiên hạnh phúc cũng vô vàn
không kém, thậm chí cái chuyện được làm người trên cõi đời này cũng đã
là chuyện hy hữu, thế mà lạ thay, chúng ta chỉ thấy những khổ đau, chỉ
nguyền rủa cuộc đời, cay đắng với bản thân mình, và có vẻ như rất khoái
gặm nhấm những nỗi khổ đau kia, mà quên đi, lờ đi những niềm hạnh phúc:
“Rồi bị thương người ta giữ gươm đao/Không muốn chữa không chịu lành thú
độc” (XuânDiệu). Cái "thú độc" đó có khi còn được gọi là "thú đau
thương", được con người ca tụng, nâng niu, vun vén, hưởng thụ...đã bao
đời!
Cứ hỏi một người đi,
hỏi anh ta có hạnh phúc không, anh ta sẽ sung sướng kể cho nghe triền
miên những điều bất hạnh. Còn nếu hỏi anh ta những điều bất hạnh, anh ta
sẽ sung sướng kể cho nghe biết bao nỗi khổ đau. Con người sống trong
cái khổ như vậy, loay hoay với cái khổ như vậy, thoát ra không dễ. Một
số không nhiều "ngộ" được cái khổ đau kia chính là mầm mống của hạnh
phúc phiền não kia là "nguồn lực" của Bồ đề. Cho nên, có người tìm được
con đường, vạch ra con đường, chỉ ra con đường, làm sao không cảm kích.
Mà thú vị, con đường đó không ở đâu xa, có sẵn đó rồi ở trong ta thôi.
Cho nên, người chỉ đường nói, chả có pháp gì đâu mà bày vẽ chả có cái gì
giành được, lấy được, chiếm được để mà khoe khoang. Con người đó mới
thật dễ thương làm sao. Con người đó bỏ vương quyền, bỏ nhà bỏ cửa lên
rừng, lội suối trèo đèo, nhịn đói nhịn khát, có lúc chỉ còn xương bọc
da, sờ bụng thì đụng xương sống, có lúc sống trong nghĩa địa, để bọn trẻ
chăn trâu nhổ vào mặt (…), rồi ngộ ra một điều thú vị, sảng khoái, thấy
con người đáng sống, đáng hạnh phúc. Con người đó đã biết từ bỏ, dám
buông bỏ, đã kiên trì, đã kham nhẫn, đã thiền định, đã vượt thoát bằng
con đường trì tuệ, và điều quan trọng là không giữ cho riêng mình mà
chia sẻ cho tất cả chúng ta, chẳng đáng quý ư? Thậm chí, có lúc không
thể nói lên được bằng lời thì Ngài đưa lên một cành hoa và im lặng. Cái
sự trao truyền trong im lặng này mới thật là tuyệt diệu, nó làm cho ta
được tự do khám phá. Khám phá không ra thì ta…ú ớ, khám phá ra rồi thì
ta càng ú ớ, càng nói không được.
Con đường an tịnh
Trong
đời sống thường ngày, chúng ta cũng có thể có những chút "giác ngộ":
đời là vô thường, là bóng câu qua cửa sổ, là bọt bèo, là giấc mộng!
Nhưng ta chỉ giật mình “ngộ" một chút rồi quên, rồi "trôi lăn" theo
những tham sân si, những quấn quít chằng chịt vô cùng hấp dẫn không sao
thoát nổi kia! Ngay những triết gia quay quắt tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời,
sự hiện hữu của kiếp người cũng vẫn loay hoay với bao triết thuyết rồi
đâu vào đó. Phải có một con đường khác. Phật khẳng định có con đường
khác đó: "Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh,
diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…”. Đó chính là con đường hạnh phúc
trải nghiệm của đức Phật, với nụ cười tự tại trên môi, nhất quán, xuyên
suốt 45 năm tận tụy sẻ chia cho mọi người từ ngày thành đạo. Đó là con
đường thực nghiệm, thể nghiệm, không lý thuyết suông, không hý luận,
được kiểm chứng và có tính phổ quát. Những lời dạy cuối cùng của Phật
cùng các đệ tử cũng đã không quên nhắc lại "con đường độc nhất đưa đến
thanh tịnh cho chúng sinh..." này, bởi sợ rằng sau này người ta lại dễ
rơi vào tranh luận, hý luận, mà quên thực hành, để đi vào trăm ngả thị
phi. Con đường đó chính là Thiền định và Thiền quán.
Thiền
có lẽ đã có từ rất lâu đời. Có lẽ ngày xa xưa con người tự dưng phát
hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái sảng khoái, siêu thoát nào
đó, một trạng thái "hỷ lạc" nào đó, nói không được, mà chỉ có thể cảm
nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích lũy kinh nghiệm,
truyền đạt lại cho nhau bằng nhiều cách. Chính đức Phật, trong khi tìm
kiếm con đường giải thoát, tình cờ nhớ lại tuổi ấu thơ của mình có lần
đã rơi vào trạng thái sơ thiền mà nhanh chóng phát hiện ra con đường
thiền riêng của mình, con đường không những “diêt trừ khổ ưu” mà còn dẫn
đến “thành tựu chánh trí”, giải thoát rốt ráo. Trước đó ngài đã từng
rời bỏ những con đường thiền khác. Rõ ràng thiền đã có từ xa xưa nhưng
thiền Phật giáo có những sáng tạo riêng rất đáng nghiên cứu và thực tập.
Không phải vô cớ mà ngày nay các trung tâm y khoa lớn trên thế giới đưa
thiền vào giảng dạy như một liệu pháp hữu hiệu chữa trị nhiều thứ bệnh
thời đại.
Thế nhưng đọc cả
chồng sách luận về thiền càng dễ tẩu hỏa nhập ma, bởi có lẽ nó là cái gì
đó “bất khả thuyết" và đặc biệt "bất khả đắc" khi ta nóng lòng muốn
"chộp" lấy nó!
Nói cho cùng, thiền có vẻ thật đơn giản mà không giản
đơn chút nào. Nó như thách thức những nhà triết học, các học giả, mà lại
mỉm cười với anh hàng thịt, người gánh rau, bởi nó đòi hỏi sự chuyên
tâm thực hành, thể nghiệm trên chính bản thân mình hơn là ngàn chương
khảo luận.
Có một sự nhất
quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức
Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati),
Nhập tức xuất tức niêm (ànàpànasati) với một động tác cốt lõi: Thở vào
thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra, thở vào dài thì biết thở vào
dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn... Tóm lại, quán sát hơi thở, hay
đặt chánh niệm vào hơi thở. Chỉ có vậy Mà vô vàn. Mà nói không được.
Dù
gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen ( Nhật)... thì cũng đều do dịch
âm từ Dhyana (Sankrist) hay Jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì Jha là
nhìn, là quán sát hay quan sát và Ana là thở, hơi thở, khí. Vậy, Jhanas
hay Dhyana chính là quán sát hơi thở. Đơn giản vậy mà không giản đơn
chút nào Đức Phật đã nhắc đi nhắc lại như là một chìa khóa căn bản. Phải
mở cái cửa này đã rồi các cửa khác mới mở tiếp được.Vấn đề là tại sao
và cách nào để chỉ từ một việc có vẻ rất giản đơn là quán sát hơi thở
lại có thể dẫn tới tuệ giác? Quán sát hơi thở thì có gì hay? Tại sao
không quán sát các đối tượng khác? Thật ra thì quán sát cái gì cũng được
cả, bởi tất cả đều là "pháp". Nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện
dễ thấy "ngũ uẩn giai không" tức vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là
một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái.
Dĩ
nhiên để thấy "vô ngã" thì phải từ "ngã". Nên tốt nhất là chọn một đối
tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Chẳng hạn như tâm mình, thân
mình. Nhưng tâm thì nhảy nhót triền miên, khó bắt dừng lại để quán sát;
còn thân thì lục cục đi đứng nằm ngồi đâu có dễ mà chăm chăm dòm ngó!
Tim đập cũng lúc nhanh lúc chậm, nhưng khó thấy, khó can thiệp. Dạ dày
thì làm việc âm thầm, ngoài ý muốn, khó quan sát. Các bộ phận khác cũng
vậy. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi
mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng thở. Đi đâu cũng thở. Quan sát nó
thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở
cả chục lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm
dịu. Hơi thở lại gắn với cảm xúc! Rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh
đẹp, ta "nín thở". Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng.
Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng.
Như vậy, thở gắn với tâm trạng, gắn với cảm xúc, thay đổi liên tục. Và
nhờ đó mà thấy vô thường. Quan sát hơi thở do vậy ta quan sát được cảm
xúc, tâm trạng. Nói khác đi, quan sát được cái tâm ta. Tâm quậy phá, tâm
lộn xộn, tâm an vui ta biết hết! Thở cũng lại gắn với hoạt động của cơ
bắp: khi mệt, ta mệt "bở hơi tai", muốn đứt hơi, muốn hết hơi! Lúc đó ta
chỉ mong được... xả hơi! Do vậy mà quan sát hơi thở ta quan sát được
cái thân ta. Thân mệt, thân khỏe, thân an vui ta thấy biết hết! Rõ ràng
chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân và tâm ta.
Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Lâu lâu muốn ngưng
chơi một chút cũng được, nhưng đến một lúc, nó tự động thở. Như không
cần ta, như ở ngoài ta, như không phải ta. Nói khác đi, quan sát thở, ta
có dịp đào sâu xuống...vô thức. Chẳng hạn thở gắn liền với sự sống
chết. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Mở
mắt chào đời, thở vào; nhắm mắt lìa đời thở ra. Mỗi hơi thở như một
kiếp sống, một đợt sóng lăn tăn nối tiếp. Mỗi hơi thở vào ra trung bình
khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu
tế bào hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản
sinh. Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hóa cảm xúc ta, cả
hành vi ta. Nó tác động hai chiều như một phản ứng hóa học! Đang giận,
đang tức cành hông, mà kịp tập trung quán sát hơi thở của mình thấy nó
kỳ cục, tức cười, bèn thở chậm lại, quên giận lúc nào không hay! Quán
sát hơi thở lôi kéo ta về hiện tại tức khắc, điểm hưng phấn trên vỏ não
đã bị dịch chuyển! Nói cách khác, ta có thể dùng hơi thở làm trung gian
để kiểm soát thân tâm ta, làm cho tâm yên ắng (an tịnh), thân êm ắng nếu
muốn!
Ta biết hô hấp không
phải xảy ra ở phổi mà ở từng tế bào. Cơ thể ta có hằng vạn tỷ tế bào. Hô
hấp diễn ra trong từng tế bào, ở đó, các phản ứng hóa học dùng oxy từ
phổi đưa vào để tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động và tồn tại. Người
lao động nặng cần năng lượng gấp ba bốn lần người bình thường, trong đó
hoạt động cơ bắp đã chiếm hết một nửa. Riêng não bộ, với trọng lượng
rất nhỏ bé, chỉ chiếm 2% thể trọng mà đã tiêu dùng đến 30% khối lượng
oxy đưa vào cơ thể. Giận dữ, lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng
lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời là vậy! Ngủ
là cách giảm tiêu hao năng lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm
bao. Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc? Thiền
giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, hơn cả giấc ngủ.
Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi,
nên toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng
khoái đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể, một cảm giác lâng lâng dễ
chịu toàn thân của hành giả, phải chăng chính là trạng thái hỷ lạc
(thiền duyệt)?
Khi thân thể
đã hoàn toàn thư giãn, buông xả, thì có vẻ như chỉ còn phần "khí" vận
hành. Khí đó từ bầu khí quyển, từ vũ trụ, từ thiên nhiên. Các sinh vật
cùng chia sẻ một cách... bình đẳng, theo nhu cầu. Ta hút lấy oxy của
không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút carbonic lại tạo ra
oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương... cũng phình ra xẹp vào
như vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt từ ngàn xưa.
Nhưng chính con người làm hại môi trường sống của mình, tiêu diệt cây
xanh, đến nỗi phải mua từng bình oxy mà hít?
Phổi
ta hoạt động như cái piston để bơm khí vào ra. Áp suất âm, khí được hút
vào; áp suất dương, khí được đẩy ra, Có một thời điểm ngắn, ở đó, áp
suất cân bằng, không âm không dương, khí bên trong phổi và ngoài phổi là
một: kho trời chung mà vô tận của mình riêng (NCT).
Tự mỗi người phải thực hành và cảm nhận, tự thể nghiệm, tự chứng nghiệm.
“Pranasati…”
Đối
với tôi, cụm từ bí hiểm mà có sức...hấp dẫn nhất là "hành thâm Bát Nhã"
trong Tâm kinh: "Quán Tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời
chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”.
Bát
nhã là gì? Ba la mật là gì? Làm sao mà có thể giúp "chiếu kiến ngũ uẩn
giai không"? Tại sao các vị học Phật uyên thâm, các vị đại Thiền sư như
Cưu-ma-la-thập, Huyền Trang lại không dịch mà chỉ phiên âm Bát-nhã
ba-la-mật từ "Prajna paramità" của tiếng Phạn? Hẳn có điều chi khó nói.
Nói không được. Nói không được bởi sợ nói không hết ý, còn có thể bị
hiểu lầm, sinh chuyện! Cho nên các vị thận trọng, giữ nguyên âm, để mỗi
người tự tìm lời giải đáp cho mình. Rồi "hành" là gì? "thâm" là gì? Cách
nào? Một người thực sự tu hành thì chẳng ai cần thắc mắc lôi thôi như
vậy. Nhưng một người bình thường, nhất là một người thầy thuốc như tôi,
bị "méo mó" nghề nghiệp, không thể không mày mò tìm kiếm dù cho biết là
"bất khả đắc"!. Có một "cơ chế' gì không? Có một "công thức" gì không,
như của Einstein chẳng hạn để chuyển hóa vật chất thành năng lượng? Thử
nhìn từ góc độ y sinh học, mối liên quan giữa thân và tâm, giữa Khí và
Trí (Bát nhã) xem sao. Dĩ nhiên ta biết trí Bát nhã ở đây không phải là
cái trí "thông minh", cái kiến thức tích cóp thông thường. Một người
thông minh có thể dùng suy luận để hiểu duyên khởi, hiểu không, hiểu vô
ngã, nhưng đó chỉ là cái hiểu bằng ý niệm, bằng khái niệm. Và như vậy,
không thể "độ nhất thiết khổ ách" được! Bởi không, vô ngã ở đây phải là
một trạng thái, một thứ thấy biết từ trong định, trong tuệ.
"Hiệu
quả sẽ chứng minh- Edward Conzé, người dịch kinh Kim Cũng sang tiếng
Anh hơn nửa thế kỷ trước nói vậy- chính trong đời sống hàng ngày, ta sẽ
thấy hiệu quả?". Tôi cũng thấy vậy! Phải được kiểm nghiệm trong đời sống
hằng ngày. Phật giáo không là một tôn giáo thần bí, một triết học viễn
mơ, mà là một khoa học, thực nghiệm, thể nghiệm, gắn với đời sống con
người, hạnh phúc con người. Phật dạy đừng bàn phiếm nữa. Thực hành đi,
rồi tự thấy, tự biết. Hãy đến, thử rồi biết! Nó sẵn có đó rồi. Đừng tìm
đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Nghe có vẻ lạ lẫm.
Nhưng quả đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể thở giùm ai? Ai có
thể "thiền" giùm ai? Ai có thể "quán" giùm ai? Chuyện xưa kể không ít
trường hợp có người không tin, tìm đến Phật để tranh luận. Phật bảo xin
ông làm ơn thử cách của tôi một thời gian, rồi sau đó hãy tranh luận.
Thử xong, nhiều người quỳ xuống đánh lễ, xin làm đệ tử, không nhắc tới
chuyện tranh luận nữa! Có vẻ đơn giản, nhưng thực ra không giản đơn chút
nào, bởi phải hết sức miền mật, hết sức chăm chút. Phải thực sự "hành"
và thực sự "thâm". Phải ngấm sâu vào "từng tế bào" của cơ thể để chuyển
hóa thân tâm và từ đó có thể phát hiện ra bao điều kỳ diệu, không chỉ
"diệt trừ khổ ưu mà còn "thành tựu chánh trí". Dĩ nhiên cần có khá nhiều
điều kiện hỗ trợ. Bởi luôn luôn gặp vô số những trở ngại cần phải vượt
qua. Mà, trở ngại lớn nhất chính là muốn "thủ đắc", trong khi nó vốn "vô
sở đắc".
Quán niệm hơi thở
(Nhập tức xuất tức niệm) chỉ là bước đầu dẫn đến Định, nhưng để vượt
qua, đến Tuệ thì còn phải quán niệm ở những tầng sâu hơn, xa hơn. Trong
nhịp thở bình thường của chúng ta, trước mỗi giai đoạn thở vào và thở ra
có một quãng lặng, nghỉ "xả hơi". Quãng lặng "xả hơi" đó ở cuối thì thở
ra - trước khi thở vào trở lại- thường kéo dài hơn, thong dong hơn, nhẹ
nhàng hơn, yên tĩnh hơn. Đó chính là giai đoạn "prana". Pra có nghĩa là
trước và ana là thở vào (cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Về sinh học
đây là giai đoạn áp suất trong phổi bằng không (zéro). Lúc đó khí trong
phổi và khí vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Prana đã được
biết đến từ xa xưa. Yoga của ấn Độ, khí công bên Trung Quốc, cũng như y
học Đông phương cổ đại đã nói đến. Trong yoga có pranayama, kiểm soát
hơi thở. Trong thiền định, không phải là vấn đề kiểm soát hơi thở mà hơi
thở sẽ tự kiểm soát? Hành giả chỉ "mượn" quán niệm hơi thở để dẫn đến
định và những quán tưởng sâu xa hơn. Đến một lúc nào đó hành giả không
cảm nhận mình đang thở nữa! Đó chính là khoảng lặng. Sự an tịnh. Sự hòa
tan. Sự tan biến. Có thể nói đến một "pranasati" ở đây chăng?
Phổi
như một cái máy bơm "phình xẹp" để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất
thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên ngoài tự
động tràn vào, tuôn vào, lấp đầy các phế nang, cho đến một lúc lượng
khí bên trong phổi đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, phổi đẩy
khí ra. Lúc áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, bằng "zéro" thì
khí bên trong và bên ngoài hoàn toàn giống nhau. Lúc đó chính là quãng
lặng, giai đoạn "xả hơi" sau mỗi lần hít thở, và không hề tốn năng
lượng. Những vị thiền sư giàu kinh nghiệm (thiện xảo) thường nói đến
giai đoạn thở mà như không thở, gần như ngưng thở khi vào sâu trong
định. Ở đây họ đã không còn ý niệm gì về hơi thở, về không gian, thời
gian, về ta, về người... Hình như đã hòa nhập vào tất cả, với tất cả,
lắng đọng, thanh thoát. Tiến trình hô hấp vẫn diễn ra sâu trong các tế
bào, nhưng ở mức thấp nhất, nhẹ nhàng nhất, vì nhu cầu sản xuất năng
lượng không đòi hỏi cao nữa! Lúc đó cơ thể như cánh chim lượn bay, không
phải vỗ cánh, như xe đang ở số không, ngon trớn, chạy không tốn xăng.
Phải chăng đó là lúc thiền giả ở trong một trạng thái sảng khoái, dễ
chịu gọi là hỷ, lạc. Nhưng nếu dừng lại ở đây thì chưa phải là thiền
Phật giáo. Thiền Phật giáo còn tiến xa hơn thế.
Bầu
khí quyển chúng ta thở hôm nay so với cách đây 700 triệu năm - tức là
khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên trên trái đất- nói chung cũng
chẳng khác biệt chút nào! Với người anh em đơn bào cách đây 700 triệu
năm thì ta cũng cùng hút chung một thứ khí, cùng bú chung một "núm vứt
vũ trụ, cùng với muôn loài khác nữa.
Khoa
học đã chứng minh chuyển hóa cơ bản trong thiền thấp hơn cả trong giấc
ngủ. Do vậy mà các thiền sư không có nhiều nhu cầu về các chất dinh
dưỡng được cung cấp bởi thức ăn. Định và Giới gắn bó chặt chẽ với nhau
là vậy?
Đời sống tiết độ,
tri túc, kham nhẫn, tỉnh giác…phải chăng có thể góp phần giải quyết
những vấn đề sức khỏe thời đại của chúng ta hôm nay ?
Đỗ Hồng Ngọc
Nguon: dohongngoc.com