sự tích khác về 18 vị La-hán
La Hán Trường Mi (Ajita)
Ngắm đời ...ngắn ngủi trôi đi
Ấy là La Hán trường mi rất hiền
Tên của Ngài là A-thị-đa (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ.
Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống,
điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia,
Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán. Ngài cũng là một trong
những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian.
Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật
pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời
danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại
vương chớ lo, bệnh của Thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp
tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi.
Vua rất tức giận bỏ đi.
Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang lễ,
ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn
khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng Thái tử hết bệnh. Điều
này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy
ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh
ở nước này. Đã hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả
A-thị-đa còn đang trị bệnh cho người hay tọa thiền trên núi. Pháp Trụ Ký
xếp Ngài là vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ
trong Linh Thứu Sơn.
La Hán Tĩnh tọa (Nakula)
Tay ôm bình bát... Ngài ngồi
Vô tư...mà nhớ kiếp người mong manh
Tên của Ngài là Nặc-cù-la (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động
Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền
thuyết, Ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ
biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả
Ala-hán trong tư thế tĩnh tọa. Đương thời của Tôn giả, có ngoại đạo
Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng chinh
phục Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân chánh,
Tôn giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí
tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực
không thối chuyển. Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời,
không thể an trú vĩnh
viễn trong pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy
hoại. Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu
của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán,
sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn giả Nặc-cùla dùng thiên nhãn
thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà: - Đó chính là
pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con
người chưa được diệt trừ hết. Vua nghe Tôn giả giải thích mới hiểu được
Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn giả. Theo Pháp
Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài
thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.
La Hán Tọa Lộc (Pindolabhārad)
Vắt chân ngồi tựa lưng Nai
Bỏ quên quá khứ vị lai mất rồi
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh
Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử. Ngài là vị
Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có
một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay
hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị
tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ khôngcòn bậc La-hán.
Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ
Phật pháp. Lời dạy của Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”.
Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện
vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc
rơi xuống như mưa, mọi
người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường. Tuy đã thiêu thân,
nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi để tọa
thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định Ngài
ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm
tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha
hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì
giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời thế gian
mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa. * Dị bản: Tôn
giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn
ngài nói ra Pháp Trụ Ký
La Hán Khoái Nhĩ (Nāgasena)
Tai nghe muôn vạn khổ sầu
Được, mất ...mặc kệ, lo âu mà gì
Ngài tên là Na-già-tê-na (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên.
Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức
mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán
nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà
cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn
giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc
vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng
ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền
và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên
mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng
hộ Phật pháp. Có chỗ nói ngài
Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang
ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe
hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển
thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào
đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên. Theo Pháp Trụ Ký,
Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ
trong núi Bán-độ-ba
La Hán Thác Tháp (Subinda)
Tay nâng chiếc Tháp liên hoa
Như nâng vũ trụ trong tòa pháp Không
Ngài tên là Na-già-tê-na (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên.
Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức
mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán
nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà
cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn
giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc
vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng
ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền
và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên
mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng
hộ Phật pháp. Có chỗ nói ngài
Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang
ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe
hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển
thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào
đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên. Theo Pháp Trụ Ký,
Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ
trong núi Bán-độ-ba.
La Hán Khai Tâm (Jivaka)
Vì đời còn lắm tham sân
Cho nên La Hán ...khai tâm để mà...
Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là
Thú-bác-ca (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói
thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc
dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ
cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang
dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần,
không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông
thiệt tình khâm phục và xin quy y làm đệ tử. Sau khi xuất gia, trải qua
bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo
Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ
nói: - Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì
xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây. Nói xong, Ngài cắm cây
sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc
lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là
Trượng Lâm. Quần chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm
của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống
nghiêm trọng, tôn giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối
nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm
cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng vùng này mãi nhớ
ơn đức của Tôn giả. Theo Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ
chín, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy.
La Hán Phục Hổ (Dharmatrāta)
Hổ kia chúa tể sơn lâm
Mau mau đổi tánh chuyển tâm theo Ngài
Tên của Ngài là Đạt-ma-đa-la (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh
Cam Túc. Thuở nhỏ Đạtma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình
tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe
những chuyện thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ
in đậm hình ảnh các Ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy. Một hôm trong
khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động,
vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt,
Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn
cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày
nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một
vị Lahán cách tu tập để
được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem
kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời
dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả. Thành một A-la-hán thần
thông tự tại, Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết
pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con
hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng
Ngài người ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ. La-hán
Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập
Lục La-hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.
La Hán Khánh Hỷ (Kanakavatsa)
Thảnh thơi trong chốn bụi hồng
nụ cười hỷ lạc cõi lòng thênh thang
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha (Kanakavatsa), còn gọi là
Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt
thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn
phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho
phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện
căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau. Ngài thường đi du hóa khắp
nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục
chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày,
tương lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển minh
giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi.
Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấây
một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài
ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh
nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng,
ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không
được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ,
quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp. Bằng cách giảng dạy chân thật,
Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân
sinh. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị
La-hán trụ tại nước Ca-thấp-dila (Kashmir).
La Hán Hàng Long (Nandimitra)
Rồng kia vùng vẫy mây trời
về đây phủ phục Ta ngồi ..oai phong
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh
Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử. Ngài là vị
Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có
một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay
hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị
tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán.
Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ
Phật pháp. Lời dạy của Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”.
Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện
vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc
rơi xuống như mưa,
mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường. Tuy đã thiêu
thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi
để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất
định Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác.
Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật
cười ha hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc
thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời thế
gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa. * Dị bản:
Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ
công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
La Hán Bố Đại (Angada)
Vai mang một túi ...tình thương
niềm vui trổ nụ trên đường độ sanh
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà. Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền
thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết
người, Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên
núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như
biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên
mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa. Nhân
có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di-lặc, nhưng chưa
được thấy diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn
hoa chí thành khấn nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp
ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà,
đến đưa ông
lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di-lặc. Tôn giả đã đưa người này
lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang
nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ đô nước
Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả. La-hán là bậc bất sanh bất
diệt, đến đi tự tại, các Ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. Lahán
Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện
thân của Bồ-tát Di lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị
A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.
La Hán Quá giang (Bhadra)
Nơi đâu vắng bóng Phật Đà
Ngài về hoằng hóa vượt qua khổ sầu
Tên của Ngài là Bạt-đà-la (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì
mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền. Theo truyền
thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và
như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi
người thọ trai, Ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều
buổi tối, Ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa
đêm cũng thức dậy đi tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến
tai đức Phật. Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết
thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong
tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh.
Tiếp
nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm
rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó
tắm rửa là một pháp tu hữu dụng thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy
mọi người. Các tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng Ngài trong nhà
tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư duy. Tôn giả cũng thường dong
thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta…
nên được mang tên La-hán Quá Giang. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán
thứ sáu, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-lachâu.
La Hán Tiêu sư (Vajraputra)
Vui đùa sư tử con ư ?
Ấy là La Hán Tiêu sư thật rồi
Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajraputra). Tương truyền
khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một
tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét.
Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi
xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử
thường quấn quýt bên Ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Về phía Bắc tinh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị
lành được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi
Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật
pháp đã suy vi. Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay
đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức
nước đầy trở lại. Tôn giả bảo mọi người rằng: - Nước ao cạn khô vì mọi
người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời
Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi
bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô. Mọi người nghe Tôn giả
nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn giả nên
phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.
Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân
gian để xiển dương pháp Phật. Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8,
thường cùng 1.100 vị La-hán? trụ ở châu Bát-thíchnoa.
La Hán Ba Tiêu (Vanavāsin)
Ơ kìa La Hán Ba Tiêu
Hình như Ngài cũng ...đăm chiêu sự đời ?
Ngài chính là La-hầu-la (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ
sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu
trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung
nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm
ở, Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn
đồ ném đá trúng đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự
tay băng bó. Tín chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem
cúng người khác, Ngài cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng. Sau khi chứng
quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật
hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với
đức tánh lặng lẽ, Ngài
được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư. Sau Phật diệt độ, vua nước
Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng,
số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành khất
thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một
gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo
thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại
thế, Ngài cũng từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh
nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân thế mình
chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị
A-la-hán trụ ở Tất-lợidương-cù
châu.
La Hán Thám Thủ (Panthaka)
Tọa thiền chỉ thấy ..Tâm thôi
Xả thiền thấy cả đất trời... nhẹ tênh
Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn
thiền định. Ngài tên là Bánthác-ca? (Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ
biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều
sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục
Ấn Độ. Bán-thác-ca lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo
ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia
đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng đoàn, trở thành một vị Tỳ-kheo tinh
tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là
Châulợi-bàn-đặc, Ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc, thời gian
đầu thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì tình
thương và trách nhiệm nên Tôn giả
đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận ghét. Về sau, khi
Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là người
mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm
động tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: "Này Bán-thác-ca và
Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia
học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai
ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp".
Hai tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh. Theo Pháp
Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười, Ngài thường cùng
1.100 vị A-lahán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
La Hán Trầm Tư (Rāhula)
Phải chăng nhân thế trầm phù ?
Sao La Hán mãi...trầm tư thế này
Ngài chính là La-hầu-la (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ
sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu
trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung
nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm
ở, Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn
đồ ném đá trúng đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự
tay băng bó. Tín chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem
cúng người khác, Ngài cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng. Sau khi chứng
quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật
hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với
đức tánh lặng lẽ, Ngài
được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư. Sau Phật diệt độ, vua nước
Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng,
số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành khất
thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một
gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo
thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại
thế, Ngài cũng từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh
nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân thế mình
chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị
A-la-hán trụ ở Tất-lợidương- cù
châu.
La Hán Kháng Môn (Cullapatka)
Muốn vào được cửa Vô Môn
Dễ thôi, ... tẩy tịnh tâm hồn rồi qua
Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周周周周
(Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương
cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài không
tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về
sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét
rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy
của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng
Thánh quả. Một hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị
A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã
chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật
bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem có sót
người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa thượng đang tọa
thiền rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ
lẽ ra đó là trò đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán
công phu của Châu-lợi-bàn đặc. Theo truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn
giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối
rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những chiếc
chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì
sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu
tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị
A-la-hán thường trú tại núi
Trì Trục.
La Hán Kỵ Tượng (Kalica)
Lần theo dấu vết chân Voi
Để nghe diệu pháp sáng soi nẻo về
Tên của Ngài là Ca-lý-ca 周周周 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề
huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở
tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp. Phật đến Tích Lan
thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức
Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại
đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một
ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ
thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau
chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên
núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị
kẻ địch rượt đuổi
nên chạy trốn vào hang núi, Tôn giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp
dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại
kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn giả một phen nữa
hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ
chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở
trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm
đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích
rầm rộ không ngớt. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ
bảy, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu
(Tích Lan).
La Hán Cử Bát (Kanakabharadvāja)
Tay dâng chiếc Bát ...lên trời
Để luôn phụng sự cõi đời lầm than
Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà (Kanakabharadvāja). Ngài là
vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.
Quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả
Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc
vương giật mình kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình
dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần biến của Tôn giả. Theo lời
khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ
phụng và từ đó hết lòng tin Phật. Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú
tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài
trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại
Phật, thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng
đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị
Hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai
lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là
Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn giả chứng
minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói: - Này các vị, 16 La-hán
chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật tử
chí thành đời sau. Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên
mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát. Theo Pháp Trụ
Ký ngài là vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông
Thắng Thần
Châu.