Cứ một
ngàn dải ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế
giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại
thiên thế giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy. Người
tu đạt toàn giác (Phật) tức câu thông với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành
của vũ trụ, rồi đem sự thấy biết đó nói lại với các cõi nước thấp thua. Phật do
vậy có thể hiểu đồng nghĩa với vũ trụ. Để thấy rằng Phật không sáng tạo ra vũ
trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn thường hằng từ vô
thỉ dù cho Phật có ra đời hay không.
Những khám phá vĩ đại của ngành khoa học vật
lý lượng tử đem đối sánh với kinh điển nhà Phật đã phần nào hé lộ chân tướng vũ
trụ trong con mắt và sự hiểu biết của loài người. Khám phá về đời sống thực
vật, cũng vui ghét giận hờn trước thái độ đối xử của con người. Một kẻ cầm dao
chặt cây, từ trường đo được méo xệch chứng tỏ cây đang run sợ. Cũng cầm dao
song người ấy chỉ giả bộ, từ trường phẳng lặng cho thấy cây đi guốc trong bụng
người. Rồi cùng thể “vô tình” với cây là nước; khoa học phát hiện nước có biểu
cảm, có “kiến, văn, giác, tri”; nước hiểu sâu sắc ý nghĩ cũng như mọi ngôn ngữ
trên hành tinh. Thậm chí cốc nước đặt ở Nhật, nếu một người ở Việt Nam quán
tưởng yêu thương hay hờn giận một chiều, khi đem kết tinh, chụp lại sẽ cho ra
hình ảnh đẹp như kim cương hay xấu như trái thối ứng với niệm của người đã quán
đó; có nghĩa không gian bị xóa nhòa. Việc thu tần sóng giữa trời đất cũng phần
nào biểu hiện không gian đã bị thu hẹp đến mức nào. Nếu thật có khoảng cách
không gian, thì trong một giây sao cách đại dương có thể bắt được sóng của
nhau? Và nếu thời gian là thật tại sao những sự kiện xảy ra trong quá khứ, bằng
phát minh khoa học thu được nó vẫn vẹn nguyên tồn lưu trong không gian mênh
mông này.
Người ta từng tách mẹ con nhà hươu ra nhốt
ở hai quốc gia xa lạ. Hễ mỗi lần đưa một hươu con ra bắn thì từ trường của hươu
mẹ (ở quốc gia khác) “rùng mình”! Trong nhà Phật tuyệt đối không ủng hộ thí
nghiệm trái đạo này, song qua đây cho thấy ý nghĩ/ý niệm của động vật nói chung
đều trong một sát na trùm phủ khắp hành tinh. Chúng ta sẽ rõ hơn qua “câu
chuyện” sau: Nước Mỹ từng có hai vệ tinh đặt ở bắc bán cầu và nam bán cầu để đo
từ trường của trái đất. Một ngày tháng 9 năm 2001 bỗng từ trường của trái đất
cong vênh. Những nhà khoa học trực tại đây chưa từng thấy hiện tượng đột biến
này. Đến lúc những chiếc boeing đâm vào tòa tháp đôi newyork gây ra đại họa
thảm khốc, mới vỡ lẽ. Trong nhà Phật cũng có câu chuyện về một kẻ, do chuyên
khởi niệm quái ác nên hễ đến trú ngụ nơi đâu thì vùng ấy gặp thiên tai. Nay một
nhóm người ít ỏi phát ý niệm cực xấu, nguy cơ làm hại nhiều người đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến từ trường trái đất. Phật pháp
từng nêu: sóng thần, động đất... cơ bản là do con người chiêu cảm nghiệp lực từ
lòng sân hận, đố kỵ, tham si, giết hại chúng sanh quá tàn ác, gây nên “bão từ”...
Hiển nhiên, và hết sức khoa học, nhưng khoa học thì vẫn chưa dễ tin sâu và chưa
dễ lấy đó làm kim chỉ nam cho tương lai của quả địa cầu đang gồng mình trụ thế.
Khi một cái gì đó quá
cao, vượt ngoài sức tưởng tượng của con người thì thường bị quy là mê
tín... Khoa học không
chứng minh được điều: kinh điển Phật giáo là "cổ tích"; mà sự thật
đang tiến triển theo chiều ngược lại khiến kinh điển càng ngời sáng dẫu những
câu chữ ấy được nói cách gần ba ngàn năm về trước. Cũng để thấy, tất thảy những
gì Phật thuyết đều tơ hào không sai, và dĩ nhiên con người trong Tam giới sẽ có
nguy cơ sa vào cảnh giới ác đạo một khi chấp chặt vào tri kiến thế gian.
Đạo Phật không hề có một chế định nào có
tính ép buộc ai quy y, cũng không cản trở người quy y hoàn tục. Kinh điển là
phác họa một cách chi tiết hình hài vũ trụ. “Tin thì tin không tin thì thôi” - đơn giản như một câu thơ vậy.
Công việc không mệt mỏi của Bồ tát chúng là len lỏi vào các giai tầng xã hội thuyết
giảng để làm hưng vượng giáo lý tối thượng, tiếp nối bổn hoài và huệ mạng của
chư Phật. Nếu nhất nhất pháp chỉ có trong kinh
điển là “bé cái nhầm”. Bồ tát cần thân gì để độ liền hóa hiện thân ấy. Một cao
tăng từng ví, nếu Phật pháp là ngôi nhà ba tầng thì tầng thứ nhất là Nho, tầng
thứ hai là Đạo, tầng trên hết là Phật. Ai chưa vào được Phật giáo Đại thừa hãy học
kỹ Nho, Đạo trước. Lão Tử gần Phật nhất; Đạo ở mức thấp hơn nên dễ đứng
vững trong kiến trúc thượng tầng xã hội. Cái "Không" (không là gọi cái bản thủy trời đất) trong Đạo
Đức Kinh của Lão Tử xem ra còn
hạn chế so với Tánh Không hay “sắc tức thị không không tức thị sắc” trong Bát
Nhã. Tuy xét đến cùng, Lão Tử cũng là Bồ tát vô vi sanh tử rộng độ quần sanh. Một người tốt bình thường không
chừng cũng là Phật “cải trang” trở lại nhân gian huống hồ đến bậc cao siêu như
Lão Tử. Nghe “lời than”: Ta có mối lo là
có thân này, đủ biết ông này đang thay Phật biểu diễn. Thế mới thấm thía ý câu nói của một vị tổ sư trong Tịnh
tông: Chỉ ta là phàm phu lè tè sát đất, cần bao dung khiêm hòa đối đãi với tất
cả vạn sự vạn vật thì mới mong nhập vào dòng thánh. Nếu ai đó nghĩ ta tốt thì ta
là người tốt, nếu nghĩ xấu thì ngược lại... Trong mắt ta phải thật không có
người xấu. Nếu A tàn nhẫn với B, thì A mới là người đáng thương hơn, bởi A vô
minh và nghiệp A nhận sẽ nặng bội phần. Hãy thương lấy A, phát ý niệm thanh
tịnh về A; cho những ai tương đồng mê lầm sớm tiếp nhận Phật pháp nhiệm màu.
Dẫu rằng, điều nhiệm màu luôn
khó tin. Ngay đến người học Phật cũng còn tồn nghi; nghi Phật giáo Đại thừa, nghi pháp môn Tịnh độ. Học Phật chưa thấm
thì mặt mũi như mèo sáng sớm. Thấm rồi lúc nào cũng vui. Buồn, người ta bảo học
Phật khổ sở vậy theo làm gì (tội này ta phải gánh). Vui, mọi người
nhìn vào sẽ bảo: ờ, học Phật quả lợi ích, nên theo… Mọi pháp Phật thuyết
đều bình đẳng “vô hữu cao hạ”, tùy vào căn cơ từng người. Cùng bệnh cùng thuốc
song không phải ai cũng lành là vì vậy. Một trong những thông điệp căn cốt Phật
đưa ra là: “Tất
cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ Như Lai, chỉ
vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Hễ
ai muốn thành Phật chỉ cần buông vọng tưởng và chấp trước, mà quan trọng nhất
là vọng tưởng. Khoa học chứng minh,
phần nhiều năng lượng con người tiêu hao bởi vọng tưởng. Một người nằm trên
giường nghỉ ngơi mà đầu óc chồng chéo cuồng loạn với bao ý nghĩ (chưa cần nói
đến ý nghĩ xấu) thì năng lượng tiêu hao chẳng thua người bửa củi ngoài sân. Nhiều
vọng tưởng cần phải ăn nhiều ăn bổ để bù lại sức, ít vọng tưởng thì cơ thể cần
chút cháo cũng khỏe mạnh minh mẫn; nhiều vị sư ăn ngày một muỗng cơm hay hạt mè
chính là từ nguyên lý này. Vọng tưởng ít, điều dễ nhận thấy là đêm nằm vắng dần
ác mộng, mơ mộng cái đẹp cũng thưa. Vọng tưởng có thể ví như bèo tấm trên mặt
hồ (tâm). Bớt vọng tưởng, bèo (tạp niệm, giấc mộng) liền dãn ra tươi xanh, nước
hồ nhờ vậy cũng bớt ô nhiễm.
Khoa học kiểm chứng vọng
tưởng là kẻ thù tiêu hao năng lượng trong cơ thể người, lại không cách gì trừ
diệt. Tịnh độ tông khuyên người niệm “A Di Đà Phật”. Bất kể lúc nào không vướng
công việc buộc phải nghĩ suy, trong tâm đều vang lên câu hồng danh, một thời gian vọng tưởng tự khắc thưa bớt. Đây quả là
điều kỳ diệu nhất trong những điều kỳ diệu. Tỉnh giác trong mọi lúc mọi nơi. Giả
như Phật tử phải tham gia vào một cuộc vui. Giữa ồn ào náo nhiệt, Phật tử tùy
duyên nâng ly “khai giới”, vẻ mặt cười nói hòa đồng mà trong tâm thì niệm “A Di
Đà Phật” (niệm câu nào tai nghe rõ câu đó), vậy là thiền ngay trong cuộc thị phi nhơn ngã. Niệm Phật phải đến độ ví
như nửa đêm tỉnh giấc, câu Phật hiệu tự nhiên vang lên; hoặc sáng ra choàng
tỉnh tự hỏi: ủa, ai bật “máy niệm Phật” trong tâm mình rồi nhỉ. Đó là biểu hiện
người tu đã có công phu, toàn vọng đang dần quy chân, đạo lộ hướng về cõi màu
nhiệm thật sự đã hé mở trong mê lộ của tâm.
*
Đạo Phật không phải triết học, càng không
phải là một tôn giáo. Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ
trụ nhân sinh vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa điều huyền nhiệm và tầng triết
học siêu việt. Nếu chẳng tính căn duyên những kiếp trước (như
trường hợp người ngu dốt lại một lòng theo Phật); nếu chỉ xét sở tri nhân thế,
thì đến như Albert Einstein với bộ óc thông tuệ tuyệt vời mới tin nổi
lời Phật.
Nhiều bậc chân sư thời
hiện đại đã rất bội phục việc khoa học phát hiện ra ý niệm tạo nên cảnh giới. Người nào ngày đêm với một
ý nghĩ (ước muốn) thường trực, đến quay cuồng, quy luật hấp dẫn tự nhiên theo
đó sẽ tạo nên những điều kiện phù hợp để người ấy nắm lấy mà kiến tạo tương
lai. Dĩ nhiên điều này còn phụ thuộc vào phước đức, căn mạng từng người. Một
nhà khoa học từng vẽ ngôi nhà mơ ước, rồi ông xếp nó vào hộp, thời gian cứ trôi
và gia đình ông chuyển đến nơi khác sinh sống. Một ngày sực nhớ bức vẽ, ông lấy
ra xem bỗng giật mình: ông đang sống trong ngôi nhà với hình dáng kể cả những
sắp đặt nội thất giống y ngôi nhà mơ ước nhiều năm trước. Trong Phật pháp gọi
là “duy tâm sở hiện”, hay “Phật do tâm sanh”. Càng đúng với ai đó trong cuộc
sống luôn với ý nghĩ và hành động tham
(nguy cơ tạo cho mình cảnh giới ngạ quỷ ở kiếp sau), sân (nguy cơ tạo cảnh giới địa ngục), si (nguy cơ tạo cảnh giới súc sanh), v.v. Đáng lưu tâm: nguyên lý trên
dễ đưa con người lệch đạo. Những mơ ước vật chất đa phần người đời mong đạt để
phục vụ sự hưởng thụ, gần như là con đường ngắn nhất đưa đến khổ đau và cũng là
con đường ngắn nhất đưa họ càng dấn thân càng lún sâu vào đất như ý một câu
trong kinh Địa Tạng. Hôm nay nhà dột vách xiêu liền sốt sắng kiếm tiền sửa
sang; hôm mai xe trục trặc liền nảy ý đổi cái mới, rồi tạm quên việc bố thí,
trì giới... Những ước mong tầm thường nhiều khi vô tình khiến cho nguyện vãng
sanh lui xuống hàng thứ yếu mà người tu không hay. Vậy là “giấc mơ con” đè nát nguyện
lực vĩ đại trong tầm tay. Người tu là người biết nương vào tự nhiên, hài hòa
cùng tự nhiên mà sống, không cầu gì ghê gớm ngoài nguyện chí thành vãng sanh
ngay đời này. Đó là chánh kiến. Mọi
nguyện lực phải được gom/thay thế thành nguyện lực vãng sanh. Như Ngài Ngẫu Ích
Đại sư có dạy: “Được vãng sanh hay không là do Tín - Nguyện, phẩm
vị cao hay thấp là do công phu Trì Danh sâu hay cạn”.
Ứớc
muốn nào khiến nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới phải xếp hàng đều
là phá kiến, tàn hoại cái thân thể vô
ngần quý giá chẳng dám mơ sẽ có lại ở kiếp sau.
Một ý niệm phát xuất liền
bao trùm, châu biến tận hư không pháp giới. Một cá nhân với những ý niệm cực
xấu hoặc cực tốt trong suốt cuộc đời đều có ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Mỗi cá
thể không tách biệt mà có tác động nhất định đến “tính nết” của trái đất. Thế
nên việc ta đóng cửa tha hồ làm việc xấu, tha hồ phát xuất ý nghĩ yêu ma quỷ
quái, thật tai hại vì nó tiếp thêm sức mạnh cho nghiệp chướng. Ngược lại, một
người luôn với ý nghĩ thuần thiện, cao hơn là không cả nghĩ thiện nghĩ ác mà
tâm ý chỉ một câu “A Di Đà Phật”, vậy đã góp công lớn cho sự an bình của trái
đất; cá thể ấy dẫu quanh năm suốt tháng không giúp đỡ ai song đó là của quý/hiếm
giữa trời đất rồi. Thói thường phân biệt người này tốt kẻ kia xấu, không hay nếu
ta cứ nhìn sâu Phật tính trong mọi chúng sanh chẳng những họ mà chính mình cũng
mở lượng từ bi và ánh sáng tâm linh vi diệu rọi vào. Đây chính là điều khoa học
cảm nhận được và khuyến cáo: Thay vì chống chiến tranh hãy ủng hộ hòa bình.
Trong các
nghiệp, ý nghiệp nguy hiểm vô cùng. Ý nghĩ/ý niệm như những con mọt nghiền
trong thớ gỗ; nhìn ngoài bóng bẩy trơn tru song khi phát hiện ra một chỗ hư,
mới hay lòng cột đã rỗng. Thân tâm ta cũng sẽ mục ruỗng bởi nghiệp ý. Tâm khởi
những ý xấu là rơi vào trận đồ của ma. Giả như đến cả ý nghĩ thiện mà ta cứ
"nhấm nháp" mãi, thực ra đang bị nó xỏ mũi lôi vào mù mịt; ấy là bộ
mặt của vọng tưởng; rồi đến phân biệt (ngon - dở, xấu - đẹp), chấp trước (nguy nhất là chấp ta (tâm) đồng nhất với thân). Pháp môn
niệm Phật thù thắng ở cả phương diện đời thường đến giải thoát bởi, hễ nghiệp ý
khởi lên thì thay ngay vào từng chuỗi “A Di Đà Phật” sẽ là thần dược số một đặc
trị phiền não, tâm sẽ tự hướng đến những giá trị thanh cao thuần khiết.
Chuyên tâm niệm Phật, tâm
sở thiện và bất thiện được quân bình, cao nữa thì tâm sở bất thiện triệt diệt. Công
phu vượt thắng, niệm thiện cũng vắng nốt; là thời điểm tâm bắt đầu trong lặng rồi
phát huy công năng vi diệu. Tâm sáng thân sẽ ít bệnh, hoặc như gặp bệnh hiểm
nghèo vẫn có thể tự chữa bằng sự việc “không biết” trong thân mình có căn bệnh.
Người niệm Phật chữa lành bệnh nan y kể không hết. Bác sĩ Ihaleakala Hewlen đã học
được truyền thống tâm linh cổ xưa của thổ dân Hawaii chữa cho hầu hết người bệnh tâm thần
bằng việc hướng vào nội tâm, đến nỗi bệnh viện nơi ông làm việc phải đóng cửa
vì không còn bệnh nhân. Nghĩa là bác sĩ không hề động chạm gì tới con bệnh mà
chỉ quán thấy trong tâm, trong ý nghĩ của mình người kia hoàn toàn không có
bệnh... Theo lý Phật, bệnh ấy (hay tính xấu ác của đối tượng) chỉ là tập tánh huân tụ lâu dài chứ không phải bản tánh. “Tự tánh hằng thanh tịnh”. Chỉ
cần trở lại “không” thì dạng vọng tưởng kia biến mất. Bởi vậy một người có khối
u, nếu lo lắng, tâm lý nặng nề khối u phát triển càng nhanh. Tập “quên” nó đi,
sống vì niềm vui của người khác, và tốt nhất là chuyên niệm Phật, khối u ít
nhất không phát triển trong thời gian lâu hơn nhiều so với cách chữa trị theo
Tây y lại tốn nhiều tiền bạc. Sở dĩ người ta quên hẳn căn bệnh bởi tâm họ pháp
hỉ sung mãn, vắng bặt vọng tưởng. Bệnh chỉ là sự ghé thăm của nghiệp thức, họ
làm chủ được. Hòa thượng Quảng Khâm về già có lần đau nặng. Ngài bảo thân này
như ngôi nhà tranh đã ọp ẹp, muốn nhập Niết bàn rồi trở lại cõi nhân gian thay
một cái nhà bê tông cốt thép chắc chắn hơn. Các đệ tử quây lại ngày đêm tha
thiết “thỉnh Phật trụ thế”. Thương tình Hòa thượng gật đầu, và thế là những
ngày sau ngài khỏe khoắn như thường. Điều này chứng tỏ tâm tịnh sáng sẽ điều
phục được thân. Chẳng những vậy tâm ấy còn điều khiển được cả tinh cầu... (Vấn
đề này xin không đề cập thêm bởi dễ sa vào thần thông diệu dụng - điều thường
khiến người tu có chút quả vị lạc trong ấm ma như Phật từng nhắc trong kinh Thủ
Lăng Nghiêm. Cũng như một số nhà ngoại cảm nhìn thấu cảnh Thân trung ấm, bên cạnh cái tốt là để biết chết không phải hết, lại
dễ khiến người đời hiểu sai lục đạo luân hồi khi thấy “họ” vẫn ở bên mồ chứ nào
có đầu thai làm con gì. Thân trung ấm chỉ là một chút xíu trong vô biên cảnh
giới Phật truyền giảng. Hiểu một nhầm thành “chư pháp thật tướng” thì khác gì vống
lên trăm nghìn hỏi sao tam thế Phật không oan cho được!).
Những gì mà
người trần mắt thịt như tôi tại thế gian chứng kiến là quá ư hạn hẹp; cho trên
đầu ta không có gì lại càng thiển cận. Trong lúc nếu không tụt hậu về tri kiến,
ta sẽ biết thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiêm túc khẳng định
thuyết luân hồi là đầy đủ căn cứ. Ngày xưa ai dám tin cả thư viện sách chứa gọn
trong cái USB nhỏ hơn cả ngón tay. Vậy nên dè chừng lời trong kinh điển; đừng
tưởng con người to lớn sẽ không thể chui vào thân kiến ở kiếp vị lai nếu lầm
đường lạc lối. Và đừng tưởng con vi khuẩn nhỏ vậy, thể tánh của nó không chứa tam
thiên đại thiên thế giới. Hãy xem khám phá khoa học sau: Tấm hình cắt
đôi; đưa (một nửa) vào chiếc máy khoa học, vẫn thấy nguyên vẹn bức hình đó. Cắt
tấm hình ra chục mảnh, lạ thay, mỗi mảnh như vậy vẫn đầy đủ hình tướng chụp ban
đầu. Điều này làm sáng chói một câu trong kinh Hoa Nghiêm: "Nhất tức nhất
thiết" (một là tất cả). Cá thể chúng sanh có Phật tính. Vậy cái toàn giác
đã có trong mỗi phàm phu. Buông xuống vọng tưởng, “vọng tận hoàn nguyên”, phàm
phu thành Phật. Như vậy phàm phu trong tâm mình vốn dĩ là cả vũ trụ. Ấy chính
là “tự tánh vốn trọn đủ” như Lục tổ Huệ Năng lúc chứng ngộ từng thốt lên.
Không học kinh điển nhà Phật nghiêm túc,
nhất là không chọn lấy một Pháp môn mà rốt ráo thực hành đã khởi tâm bài bác ấy
là vừa lội qua đầm lầy lại muốn dò lòng đại dương.
Khi nhà thiên văn chụp
được những thiên hà “hình xa luân”, “hình trụ”, “hình bầu dục”,… đúng như Phật tả
về Hoa tạng thế giới thì chính là kinh điển Phật giáo lấp lánh dưới ánh sáng
khoa học. Khi những khám phá làm rúng động nhận thức của loài người đơn giản
chỉ là vô tình minh tường một số lá
cành trong rừng kinh điển vô giá, liệu có cần đặt ra vô vàn câu hỏi trước lúc
ta tin lời Đức Phật.
N.N