Chùa Bửu Minh

(PGVN) Lúc nhìn hình HT.Thích Quảng Đức tự thiêu, Tổng thống Mỹ, John Kennedy, nhận định, “trong lịch sử, chưa có một bức hình nào trên báo đã tạo được nhiều xúc động cùng khắp cả thế giới như bức hình này”




 


Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11/6/1963.  Ảnh: Nguyễn Văn Thông

Chiến tranh khí giới để tiêu thụ khí giới chiến tranh. Việt Miên Lào là thị trường tốt cho công việc ấy, nhưng được núp dưới chiêu bài “chặn đứng sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản tại Đông Nam Á”. Ban tiếp thị tốt cho việc tiêu thụ sản phẩm chiến tranh tồn đọng sau Đệ nhị Thế chiến, là một chính quyền dễ bảo như đàn chiên là điều không thể thiếu! 

Nhằm thi hành hai mục tiêu chính cùng một lúc tại Việt nam, chính phủ Mỹ lập nên một chính quyền bù nhìn, dễ sai và phục tòng Mỹ, nghĩa là một chính quyền Công Giáo (vì Tin Lành còn yếu vào thời điểm ấy) trong một lãnh thổ mà số tín đồ của họ chỉ có 5 % dân số tại miền Nam Việt Nam. 

Chính sách phản dân chủ ‘Đa số phục tùng thiểu số’ do tay sai bản xứ của Mỹ tại miền Nam Việt Nam thực hiện. Đó, là một trong những nguyên nhân xa đưa đến vụ tranh đấu của Phật giáo 1963 bật khởi ngọn đuốc Thích Quảng Đức và sáu ngọn đuốc khác (a), nhằm thức tỉnh chính quyền Ngô Đình Diệm và đánh động lương tâm nhân loại về một thực trạng, bất công, bóc lột,  tù đày và giết hại, đang đè nặng lên thân phận người dân Việt Nam trong thời Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống. Dưới đây là ba tóm lược qua một số tư liệu của tác giả nước ngoài:

--"The Indochine Story" by the Committee of Concerned Asian Scholars, A Bantam Book, New York 1970, pp. 32 & 34: “…

Đàng sau gia đình nhà Ngô là Mỹ. Ở dưới gia đình này chẳng có gì mấy. Gia đình này đã trải cái bóng của họ trên xã hội Việt Nam; tuy nhiên cái rễ của họ thật sự chỉ cắm nông vào đất Việt. Điều này định trước những phương pháp Diệm dùng để kiểm soát đất nước... Chỉ có một đường lối: đàn áp và củng cố quyền lực trong tay những anh em và thuộc hạ của Diệm ...Săn lùng toàn diện những người bất mãn được tổ chức ở thôn quê năm 1956, và tăng gia cường độ khi tình hình suy kém.

75.000 người hay hơn nữa bị giết trong chiến dịch này. Còn nhiều người hơn nữa bị tống giam bởi sắc lệnh số 6 của tổng thống, ký trong tháng 1, 1956. Sắc lệnh nói: Những cá nhân coi là nguy hiểm cho quốc phòng và an ninh chung có thể bị bắt giam trong những trại tập trung do lệnh của cơ quan hành pháp. Tình trạng trong những trại tập trung của Diệm, chỉ bị phanh phui sau khi Diệm đổ, thật sự nhơ nhớp. Cố ý để cho chết đói, cố ý làm cho mù, cố ý hành hạ..., danh sách này thật là dài”.

--"Vietnam Revisited" by David Dellinger, p. 35: 

“...Khi Diệm về Việt Nam năm 1954, một người Công giáo theo lệnh của một thế lực ngoại quốc về cai trị một nước mà 80% là phật tử, CIA đã thuê vài trăm người để hoan hô hắn tại bến tàu. Nhưng cả CIA lẫn những giới chức Mỹ ủng hộ Diệm đều không làm sao làm ngược được sự kiện là Diệm không có sự ủng hộ của quần chúng, chính sách đàn áp đẫm máu của Diệm đối với từ các nhà sư Phật giáo và các tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài cho tới những nông dân yêu nước,…” 

--"Vietnam: “Why Did We Go?" by Avro Manhattan, Chick Publication, California 1984, pp. 56 & 89:

“Tổng thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam là một người theo đạo Công giáo cai trị Nam Việt Nam bằng một bàn tay sắt… Hắn đã được hồng y Spellman và giáo hoàng Pius XII* trồng vào cái ghế tổng thống. Hắn đã biến cải ngôi vị tổng thống thành một nhà độc tài Công giáo, tàn nhẫn nghiền nát những đối lập chính trị và tôn giáo...

Người ta ghi nhận rằng, và những con số sau đây tuy không được chính quyền chính thức khẳng định nhưng có thể coi là đáng tin cậy, là trong thời gian kinh hoàng từ 1955 đến 1960, ít nhất là có 24000 người bị thương, 80000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500000 bị đưa đi các trại tập trung. Đây chỉ là những con số ước tính bảo thủ, khiêm nhường”. 

Nguồn: Google "The Indochine Story" by the Committee of Concerned Asian Scholars, A Bantam Book, New York 1970? [10 kẻ xâm lược tồi tệ nhất trong Lịch sử Việt Nam].

Hơn thế nữa, sự đau thương của người dân Việt kể từ thời Pháp thuộc kéo dài đến, không những với chế độ Ngô Đình Diệm mà còn với, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, một chính quyền ‘bình mới nhưng rượu giữ nguyên’. Hay nói như trong đại tác phẩm Hồi ký Chính trị “Việt Nam máu Lửa Quê Hương Tôi” của cựu Tướng Hoành Linh Đỗ Mậu: “Chế độ Diệm không Diệm”. Và từ sau 1975, nhiều con chiên của Chúa, trong cũng như ngoài nước, còn muốn phục hồi chế độ cũ.

Gợi lại vài nét đơn sơ về bối cảnh lịch sử như thế để, thấy phong trào Phật giáo 1963 không phải chỉ được nhìn một cách đơn giản là, vì sự bất công giữa Phật giáo và Kitô giáo (CG và TL), mà nguyên nhân chính còn là, dân tộc Việt bị hà khắc, đàn áp, bất công, giết hại, và sự khác biệt về chính sách giữa hai tôn giáo. 

Một bên, nói theo ý của Giám Mục Puginier, là cái càng của con cua thực dân (b) do chế độ độc tài giáo trị của Ngô Đình Diêm dưỡng đải. Còn bên kia là, các tín ngưỡng dân tộc chết sống với sự thăng trầm của vận nước bị nhà Ngô uy hiếp. Biến cố Phật Giáo 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước. 

Biến cố nầy không chỉ là cuộc tranh đấu đơn thuần của Phật Giáo và hầu hết dân chúng miền Nam nước Việt, mà còn là cuộc tranh đấu của những người muốn duy trì cơ nghiệp của tổ tiên, yêu chuộng tự do bình đẳng công bằng xã hội trên khắp thế giới. 

Thoáng nhìn chiều dài lịch sử như thế, chúng ta có thể truy nguyên tại sao cuộc tranh đấu nầy lại được toàn dân và thế giới nhiệt liệt ủng hộ, mà trong đó có nhiều nhân vật lãnh đạo không có cùng một tín ngưỡng với người Phật tử Việt nam, và nhiều quốc gia dẫu có chung một khuynh hướng chính trị với chính phủ Ngô Đình Diệm. Chiều hướng ủng hộ tích cực nầy càng mạnh hơn sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự nguyện đem thân làm ngọn đuốc để cảnh tỉnh lòng người.

Sau khi 8 Phật tử bị giết tối ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, và 5 nguyện vọng tối thiểu và chính đáng của Phật giáo không được chính quyền Ngô Đình Diệm thỏa thuận, Hoà Thượng Thích Quảng Đức, người đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng nội lực, đã tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, Sài-gòn sáng ngày 11.6.1963. 

Khác với các lời xuyên tạc của những người bênh vực nhà Ngô, ký giả Nữu Ước Thời Báo (New York Times) David Halberstam đã tường thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính nễ:

“Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần cũng đã quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô lại, đầu cháy đen như than, không khí bay mùi khét thịt, thân hình chìm trong lửa quá nhanh chóng và kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể nghe tiếng khóc của những người đang lần lượt kéo đến. Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy nghĩ ... chìm trong biển lửa nhưng ngài vẫn bất động, thịt gân không nhúc nhích, không một tiếng rên, ngài bình thản điềm đạm trước bao người òa khóc xung quanh”. 
 Ảnh của ký giả Malcolm Browne

(I was to see that sight again, but once was enough. Flames were coming from a human being; his body was slowly withering and shriveling up, his head blackening and charring. In the air was smell of burning human flesh; human being burn surprisingly quickly. Behind me I could hear the sobbing of the Vietnamese who were now gathering. I was too shocked to cry, too confuse to take notes or ask questions, too bewildered to even think... As he burned he never move a muscle, never uttered a sound, his outward composure in sharp contrast to the wailing people around him), [http: //www.smsu.edu/relst/ ].

Các bài tường thuật của Malcolm Browne về cuộc tự thiêu của HT Thích Quảng Đức được hảng thông tấn AP gởi về Mỹ nhanh chóng, và những bức hình tự thiêu do ông chụp cũng được hầu hết các tờ báo khắp thế giới đăng lên trang đầu. Từ đó, độc giả năm châu bắt đầu tò mò về những gì đang xẩy ra tại Việt Nam, một quốc gia xa lạ ở vùng Đông Nam Á. Nhưng việc chuyển tải thông tin về biến cố bi hùng nầy ra khỏi Việt Nam không phải dễ, như chúng ta thấy dưới đây.

‘…Tuy nhiên, thái độ của viên chức Hoa Kỳ lúc đầu là cố gắng làm giảm cường độ một số các nguồn tin chính thức thường cung cấp cho giới truyền thông. Nhưng đây không phải là một công việc dễ mặc dầu bản doanh của báo giới bị buộc chặt, có nhóm đoàn kết chặt chẻ, và có nhóm lo sợ. Cảnh sát ngầm của chính phủ Diệm lại lén thu băng các cuộc điện đàm của các nhà báo, theo giỏi các máy điện tín, gài người vào các văn phòng và chạy theo ký giả trên các đường phố. Dẫu vậy, qua việc xử dụng các người thăm viếng, nhân viên hàng không, và ngay cả những cảm tình viên quân sự nên giới nhà báo vẫn chuyển đi được các bản tin mà họ chứng kiến...’ [A Reader, “The American Experience in Vietnam”, edited by Grace Savey, University of Oklahoma Pess,1989, pp. 112 & 113].

TIN VÀ QUAN ĐIỂM CỦA GIỚI TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ 

a. Quảng Cáo trên Washington Post & New York Times ... : Ký giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Browne viết: 

“Những bức hình mà tôi chụp về cuộc tự thiêu của HT. Quảng Đức đã trở thành một sở hữu vật mà người ta gởi đi cùng khắp thế giới. Những bức hình đó mang nhiều ý nghĩa tùy theo cách nhìn và mục đích xử dụng của mỗi người.

Một người quen ở Lisbon gởi thư cho tôi biết rằng, những bức hình về cái chết của ngài Quảng Đức được thành phần diều hâu bày bán khắp cùng ngõ hẻm. Một nhóm giáo sĩ nỗi tiếng người Mỹ cũng dùng một trong những bức hình nầy để tạo sự Chú ý cho những trang quảng cáo của họ trên Nữu Ước Thời Báo (New York Times) và báo Hoa Thịnh Đốn (Washington Post) với hàng chữ “Chúng tôi cũng phản đối: We, too, protest”. Sự phản đối của họ là nhắm vào việc người Mỹ ủng hộ chế độ Diệm”. [Malcolm W. Browne, “The New Face Of War”, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968, tr. 261-262. Xin xem thêm Christian G. Appy, “Patriots The Vietnamese War Remembered From All Sides”, tr. 60-65].

b. Trung quốc: “Hình tự thiêu của ngài Quảng Đức được Hoa Lục in ra hằng triệu bản (printed millions of copies). Một trong những bức hình đó đã gởi cùng khắp các quốc gia Á-Phi với hàng chữ lớn “Một tăng sĩ Phật Giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm”. 

c. Báo Le Monde, Được xem là phản ảnh quan điểm của Bộ Ngoại giáo Pháp. Số ra ngày 10.6.63 đã công kích chính phủ Việt Nam bằng những lời lẽ kịch liệt:

“Biến cố ở Huế đã xẩy ra do sự đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền, và đã là một cơ hội tốt để sự bất mãn của nhân dân bộc phát. Sự tranh chấp nầy đã lột trần sự cô lập và thất nhân tâm của một nhóm thiểu số Thiên Chúa Giáo được ưu đải” [“1963-2003 Bốn Mươi Năm Nhìn Lại”, Giao Điểm 2003, tr.144].  

Ngày 13.6.64 báo nầy viết: “Trước hành động tự sát để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn bước.” [Minh Không Vũ Văn Mẫu, “Sáu Tháng Pháp Nạn, 1963”, bản Ronéo, 1984, tr.320].

d. Báo La Gazette de Lausanne tại Thụy sĩ: Viết những lời rất cảm động về cuộc tự thiêu của HT Quảng Đức như sau: 

“Sự hy sinh rất khích động của vị tăng sĩ thiêu sống ngay tại Sài Gòn buộc người ta phải kính trọng. Sự hy sinh vì Chính Pháp của ông khiến chúng ta liên tưởng tới những người Ki Tô đầu tiên và sự liên tưởng nầy càng làm cho chúng ta cảm thấy oái oăm” [Hoành Linh Đỗ Mậu, “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Ký Chính Trị”, Hoa Kỳ 1986, tr. 640].

e. Báo Journal de Genève: Một tờ báo khác ở Thụy sĩ có ảnh hưởng lớn trên thế giới, nhận định: 

“Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nỗi loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện vì chính phủ chỉ là một thiểu số bó kết chặt chẻ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và cứng nhắc. Nhưng việc phải hy sinh vì Chánh Pháp của Hòa Thượng Thích Quảng Đức lại cho thấy, Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sống và tư tưởng của họ” [Đỗ Mậu, sđd, tr. 641].  

g. La Croix: Nhật báo có nhiều ảnh hưởng trong giới Công Giáo Pháp đăng bài quan điểm, chống đối chính sách độc tôn của chính phủ Ngô Đình Diệm và kêu gọi tín đồ Công Giáo cầu nguyện cho Phật Tử Việt Nam [Hoành Linh Đỗ Mậu, tr. 640].

h. New York Times (Nữu Ước Thời Báo): Số ra ngày 8.8.1963 viết:

“... Chính phủ Hoa Kỳ đã tìm đủ mọi cách để buộc ông Diệm phải giải quyết vấn đề Phật Giáo. Nhưng người ta hết sức kinh ngạc khi nghe bà Ngô Đình Nhu, em dâu của Tổng Thống Diệm, vu khống các lãnh tụ Phật giáo là phiến loạn, sát nhân, và áp dụng chiến dịch Cọng sản. Có tin cho biết, chồng bà Nhu, em của Tổng thống Diệm, có thể cầm đầu một cuộc đảo chánh đã làm cho Hoa Kỳ lo ngại. Có nhiều người cho rằng những tin đồn về cuộc đảo chánh như vậy là một phần trong chiến tranh tâm lý chống Phật giáo, và cũng là một sự hăm dọa đối với Hoa Kỳ” [BMNNL, tr.147]. 

Hình tự thiêu của HT. Quảng Đức cũng là một ấn tượng ảnh hưởng đến tòa Bạch-ốc. Tôi (Browne) được biết rằng lúc ông Henry Cabot Lodge đến gặp cố Tổng Thống Kennedy về việc được bổ nhiệm chức đại sứ tại Việt Nam, Kennedy cũng đã có một bức hình tự thiêu của HT. Quảng Đức trên bàn giấy. Cái chết của ngài Quảng Đức có lẻ là một trong những yếu tố chính cuối cùng Bộ Ngoại Giao và Toà Bạch-ốc chống ông Diệm, và thay đổi một vài chính sách lớn ảnh hưởng đến lịch sử Việt Nam”.  

(...Quang Duc’s death probably was one of the factors that finally turned the State Department and White House against Diem, altering the course of Vietnamese history to some extent) [Malcolm W. Browne, The New Face of War, p. 263].

 Ảnh của ký giả Malcolm Browne    

Lúc nhìn hình HT.Quảng Đức tự thiêu, Tổng thống Mỹ, John Kennedy, nhận định, “trong lịch sử, chưa có một bức hình nào trên báo đã tạo được nhiều xúc động cùng khắp cả thế giới như bức hình này”. 

(U.S. President John F. Kennedy said that "no news picture in history has generated so much emotion around the world as that one).

i. Chính Phủ Ngô Đình Diệm: Sau vụ tự thiêu, chấn động dư luận, của HT Quảng Đức, Ngô Đình Diệm thực sự bối rối nên ông qui trách người khác thiếu căn cứ:

- “Ông Diệm vu khống nhiếp ảnh gia Browne đã hối lộ các nhà sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp”. 

(Diem’s reaction was to accuse Browne of bribing the Buddhist monks to murder their fellow monk), [Grace Sevy, sđd, tr.112]. 

-Bà Ngô Đình Nhu: Lúc trả lời cuộc phỏng vấn đài truyền hình MỸ, ký giả Mecklin tường thuật lời bà:

“Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có gì ngoài việc thiêu sống một nhà sư”... và “Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưởng bách thiêu sống, nhưng về sau bà Nhu đã tìm cách từ chối một số các phát biểu thiếu đạo đức của bà.” 
(All that the Buddhists have done for the country is to barbecue the monk...She claimed that Thích Quảng Đức had been drugged and burned against his will. She later tried to deny having made some of her cynical comments). [Joseph Buttinger, “Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War”, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967, p .1184)]. 

Việc bà Nhu về sau muốn cải chính những phát biểu bồng bột và thiếu suy nghĩ của bà, như ông Buttinger cho biết, cũng đáng để chúng ta cảm phục và quí mến sự hối hận của bà. Tin nầy cũng phù hợp với TIN QUAN TRỌNG SAU ĐÂY:  

Tôi (Bùi Kha) có người quen ở Orange County, California, Mỹ, cho biết, cách đây gần hai mươi năm, ông Ngô Đình Trác, con trai của bà Ngô Đình Nhu ở tại Pháp, cùng với nhà thơ Du Tử Lê đến chùa Việt Nam Los Angeles, California lúc 2 giờ sáng để gặp Hoà Thượng Thích Mãn Giác, Hội chủ Tổng hội Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Hòa Thượng tiếp đón niềm nở. Sau khi thắp hương và lễ Phật, ông Ngô Đình Trác thưa rằng “Mạ con biểu con qua gặp Hòa Thượng và xin Hoà Thượng trình lại với Giáo Hội Phật Giáo là mẹ con  thay mặt gia đình xin sám hối những lời nói và việc làm trước đây đối với tăng ni và Phật-tử Việt Nam...”. Hòa Thượng Mãn Giác rất xúc động, quí mến nghĩa cử của bà Nhu, và an ủi ông Ngô Đình Trác rằng “Lúc đó bà còn nhỏ tuổi và không ai cố vấn...” (HT. Thích Mãn Giác đã qua đời tại Los Angles, nhà thơ Du Tử Lê hiện ở Orange County, California).

-Ông Ngô Đình Nhu: “Ngày 15 tháng 8 một nhà sư khác tự thiêu ở Huế, ba ngày sau đó một ni cô tự thiêu ở Ninh Hòa (Khánh Hòa có lẽ đúng hơn, BK). Để phụ hoạ với vợ, ông Ngô Đình Nhu cũng nhẫn tâm giả vờ như không có gì hệ trọng: 

“Nếu Phật Giáo muốn có một vụ nướng thịt khác thì tôi rất vui lòng cung cấp xăng”.

(On August 15, another monk burned himself at Hue, followed three days later by a nun at Ninh Hoa. Not wishing to lag behind his wife in callousness, Ngo Dinh Nhu soon afterward stated that “if Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the gasoline”), [J. Buttinger, Ibid. p. 995].

Để làm sáng tỏ Ý NGHĨA CÁC CUỘC TỰ THIÊU của Tăng Ni và Phật Tử năm 1963, tôi trích dẫn hai ý kiến của hai tu sĩ sau đây, một Tin Lành, một Phật Giáo.

- Mục sư Donald Harrington tại Nữu ước: Trong buổi giảng tại một thính đường ở New York ngày 30.6.63, Mục sư Harrington đã mô tả trung thực chân tình và cảm phục việc HT Quảng Đức tự thiêu. Bài giảng đó cũng có đoạn nói lên ý nghĩa đích thực của hành động tự thiêu: 

“Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11.6.63, vị sư tên Thích Quảng Đức đã ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường nhựa nóng. Trong tay Người cầm một xâu chuổi 54 hạt và bắt đầu niệm Phật còn trên chiếc áo cà sa của Người thì đã tẩm ướt đầy xăng. Tất cả tăng, ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ. Khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi thường gì sắp xẩy ra nên tất cả đều dừng lại chờ đợi. 

Với vẻ yên lặng, bình thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng Đức niệm lớn: “Nam Mô A Di đà Phật”. Thế rồi Người bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên phủ kín thân thể nhưng Người không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong mười phút, thân hình chìm trong lửa đỏ, và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động... 

Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn hận nào đã có thể khiến cho một người của “Tình Thương” của “Hòa Bình”, quyết chí tự thiêu?...

Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán đời cực độ đã đưa con người trên đời nầy đến chỗ tự tử, thì một lý tưởng cao cả nhất và lòng yêu đời nồng nàn nhất một đôi khi cũng đã sản xuất những người tử đạo quả cảm nhất trong lịch sử... 

Hòa Thượng Quảng Đức hy sinh đời mình bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng Thống Diệm và lưu ý cho toàn thế giới…

Người đã chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang đốt da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy lời của Người cho Tổng Thống Diệm, và cho đến nay ông Diệm vẫn chưa chịu nghe hay chú ý. Nhưng dù sao tiếng nói ấy vẫn là tiếng nói của tình thương, tiếng nói mà trong thâm tâm của nó chứa đựng sự giải thoát của miền Nam Việt Nam. Người đã để lại một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng mà Giáo Hoàng Gioan đã mang lại cho Giáo hội Thiên Chúa. Người đã làm và Người phải làm, cho mỗi người Hoa Kỳ đi tìm linh hồn của Người và cho chính phủ Hoa Kỳ biết rằng, trừ phi chính phủ Sài Gòn thực thi ngay quyền bình đẳng tôn giáo cho Phật Giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt Nam, tất cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt ngay... 

Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những người từ lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay chính đồng bào của họ...” [Vũ Văn Mẫu, sđd, tr.322-324. Có thể xem thêm trong cuốn, “BMNNL tr.148-160)].

- Ý Kiến của thầy Thích Nhất Hạnh: 

“Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối. Điều mà những vị sư đã viết trong những bức thư để lại trước lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà họ đề cập là rất tối ư quan trọng...Tu sĩ Việt Nam tự thiêu là để nói lên với tất cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi ... Để bày tỏ ước vọng bằng cách tự thiêu của một người, vì thế, không phải là một hành động hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử.”

(The press spoke then of suiside, but in the essence, it is not.It is not even a protest. What the monks said in the letters they left before burning themselves aimed only at alarming, at moving the hearts of the oppressors, and at calling the attention of the world to the suffering endured then by Vietnamese. To burn oneself by fire is to prove that what one is saying is of the utmost importance. The Vietnamese monk, by burning himself, says with all his strength and determination that he can endure the greatest of sufferings to protect his people. To express will by burning oneself, therefore, is not to commit an act of destruction but to perform an act of construction, that is, to suffer and to die for the sake of one’s people. This is not suicide).

TT.Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu của HT Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử, tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:

“Tự tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây: (1) thiếu ý chí để sống và gặp những khó khăn; (2) thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3) không muốn sống...Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái gì tốt cho tương lai. Ngài không có ý nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời mình cho kẻ khác ... Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con người”. 

(Suicide is an act of self-destruction, having as causes the following: (1) lack of courage to live and cope with difficulties; (2) defeat by life and loss of all hope; (3) desire for non exsistence... The monk who burns himself has lost neither courage nor hope; nor does he desire nonexsistence. On the contrary, he is very courageous and hopeful and aspires for something good in the future. He does no think that he is destroying himself; he belives in the good fruition of his act of self-sacrifce for the sake of others ... I believe with all my heart that the monks who burned themselves did not aim at the death of their oppressors but only at a change in their policy. Their enemies are not man. They are intolerance, fanaticism, dictatorship, cupidity, hatred, and discrimination which lie within the heart of man). [“Vietnam: Lotus in a Sea of Fire”. Hill and Wang, Inc. New York,1967, pp. 106 &107 ].  

Cuộc bố ráp chùa và bắt tăng ni đêm 20.8.1963 bằng kế hoạch “Nước Lũ” của chính quyền Ngô Đình Diệm, thế giới ngày càng hiểu rõ hơn nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo Việt Nam. Thế giới lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Phật Giáo và chỉ trích chính sách kỳ thị bạo ngược của chính phủ Diệm.

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÂN VẬT TÊN TUỔI & CÁC CHÍNH PHỦ 

Những cá nhân, đoàn thể và quốc gia ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo có thể chia làm ba thành phần. Số người khác tín ngưỡng với Phật Giáo, những quốc gia đa phần theo Phật Giáo, và những nước tân tiến kỹ thuật. Sau đây là một số trích dẫn.

 Tăng, ni, phật tử, sinh viên và đồng bào các giới, biểu tình đòi bình đẳng tôn giáo & công bằng xã hội, 1963

                          
1. LM.Lê Quang Oánh (c): Ngày 12.5.1963, Linh Mục Lê Quang Oánh đại diện khối “Giải Sĩ Đồng Tâm”, Linh Mục T. Võ Quang Thiêng, nữ sinh M. Ngọc Lan Hương ... gởi thư cho Hoà Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam bày tỏ sự đồng tình cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Một đoạn như sau:

“Chúng tôi lên án “Tội bất công” đã giết hại đồng bào vô tội. Thật là tàn bạo, dã man, phản dân chủ, phản tự do, phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam, một nước văn hiến trên bốn nghìn năm lịch sử.“Giám quả quyết rằng: “Nhân nghĩa sẽ thắng”.

2. Vatican: Giáo hoàng Phao Lồ Đệ Lục cũng đã ba lần lên tiếng về vấn đề Phật Giáo. Ngày 30.8.63 Giáo Hoàng đọc một thông điệp gởi đến nhân dân Việt Nam, nhưng văn thư nầy cũng bị chính quyền Ngô Đình Diệm ngăn cấm không cho phổ biến. Một đoạn trong thông điệp Giáo Hoàng viết:

“Giáo hoàng đã biểu lộ sự chú tâm và đau đớn theo dõi các biến cố bi thảm đương dầy vò nhân dân Việt Nam và sự lo âu của Giáo Hoàng ngày càng thêm sâu sắc ... Giáo Hoàng cầu nguyện để cho tất cả mọi người, trong mối hợp tác khoan dung và trong sự tương kính các quyền tự do chân chính, đoàn kết với nhau để tái lập tương thân và tình huynh đệ”. 

(Le Pape exprime sa douloureuse préocupation au sujet des tristes évènements qui affigent le cher peuple Viêtnamien, tandis que l’angoisse devient de jour en jour plus profonde et lancinante...Et il fait des voeux que tous, dans une généreuse collaboration et dans un mutual respect des libertés legitimes, unissent pour rétablir la concorde réciproque et la fraternité) [“Bốn Mươi Năm Nhìn Lại”, tr.126].

3. Cao Miên: Ông Trần Văn Được, hội trưởng hội Phật Giáo Việt kiều tại Cao Miên, viết thư lên án chính phủ Ngô Đình Diệm và thỉnh cầu Quốc Trưởng Sihanouk yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau khi các chùa bị tấn công, tăng ni bị bắt đêm 20.8.63, chính phủ Cao Miên, ngày 23.8.63, chính thức ra thông cáo kịch liệt lên án chính phủ Việt Nam. Một đoạn trong thông cáo viết:

“Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt kinh hải khi nhận đươc tin Chính phủ Sài Gòn đã đàn áp dã man tín đồ Phật giáo ... Chính phủ Hoàng Gia Cam Bốt hoàn toàn ủng hộ các Tăng Ni Phật tử Việt Nam” [“Bốn Mươi Năm Nhìn Lại”, sđd, tr.133).

Ngày 27,8.63, chính phủ Cam Bốt gởi văn thư đoạn giao với Việt Nam bằng những lời lẻ rất nặng nề:

“..Toàn thể dân tộc Cam Bốt cũng như tất cả các dân tộc khác trên thế giới đều công phẫn và ghê tởm trước những hành động dã man đàn áp Phật Giáo Việt Nam...” [BMNNL, tr. 134].

4. Tích Lan: Ngọn lữa từ bi hùng của Thích Quảng Đức và sự ngược đải Phật tử tại Việt Nam khiến bà Sirimavo Bandaranaike, Thủ tướng Tích Lan, vô cùng xúc động. Bà kêu gọi các nước theo Phật giáo tại Á châu ủng hộ Tích Lan trong việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam. Ngày 26.8.63, hội nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hi sinh vì tín ngưỡng (BMNNL, tr.136).

5. Miến Điện: Sau ngày các chùa tại Việt nam bị bố ráp, chính phủ Miến Điện càng công phẫn hơn. Báo “Guandiantai” tại Rangoon, thủ đô Miến Điện, cực lực lên án chính sách bạo ngược của chính phủ Ngô Đình Diệm. Báo viết:

“Mỹ sẽ lầm khi nghĩ rằng tiếp tục ủng hộ một chính phủ đang ngự trị trên thân xác đau thương của những Phật tử Việt Nam mà có thể giữ được nguyên vẹn tình cảm ngoại giao với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á” [BMNNL, tr.138].

6. Ấn Độ: Nhiều hội Phật Học Ấn yêu cầu thủ tướng Néru can thiệp. Ngày25.8.63, Tổng Thư Ký đảng Quốc Gia Ấn công phẫn chế độ Ngô Đình Diệm và cảm nhận nỗi đau thương của tín đồ Phật Giáo Việt Nam:

“Những tin tức loan đi từ Sài Gòn đã làm chấn động dư luận tại Ấn Độ, quê hương của Phật Giáo. Những sự tàn bạo mà các đạo hữu Việt Nam là nạn nhân càng làm cho ta phẫn nộ khi nhớ rằng Phật Giáo chủ trương bất bạo động”[BMNNL, tr.138].

7. Thái Lan: Ngày 22.8.63 Thống chế Sarit Thanarat, thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập một hội nghị sơ bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật Giáo Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan, Phó Giám đốc nha Tôn giáo thuộc bộ Giáo Dục, đã khuyến cáo chính phủ Việt Nam bằng những lời gay gắt và như một tiên tri:

“Vì đã đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm sẽ hứng chịu hết những tai hoạ dưới đủ mọi hình thức, hiểu theo giáo lý nhà Phật, kể cả giệt vong và đọa địa ngục...” [BMNNL, tr.141]. 

8. Đài Loan: Bộ Ngoại giao Đài Loan tuyên bố, rất lo ngại cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt Nam và mong mõi chính phủ Việt Nam sớm có giải pháp thích hợp để chấm dứt cuộc khủng hoảng. 

9. Nam Hàn: Đại đức Kapchong, Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo, gởi thư cho chính phủ Việt Nam yêu cầu chấm dứt việc đàn áp phật tử. Tướng Chang Chung Sơn, nhân viên trong hội đồng Quân nhân cách mạng, đã gởi thư lên án chính phủ Việt nam đàn áp phật tử vô nhân đạo.

10. Nhật Bản: Tổ đình Bổn Nguyệt Tự tổ chức một lễ đại cầu siêu cho cố HT Quảng Đức và Phật tử Việt Nam hy sinh vì tín ngưỡng. Thứ trưởng Ngoại giao ông Shigenobu Shima tiếp xúc với Đại sứ Việt Nam tại Nhật để biểu lộ sự lo âu về biến cố Phật Giáo Việt Nam.

11. Hoa Kỳ: Liền sau khi các chùa trên toàn miền nam bị tấn công, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phổ biến một tuyên ngôn, có đoạn như sau:

“Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài gòn, rõ ràng chính phủ Việt Nam Cọng Hòa đã có những biện pháp đàn áp nghiêm khắc các lãnh tụ Phật giáo Việt Nam. Hành động nầy là một vi phạm trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết theo đuổi một chính sách hòa giải với tín đồ Phật Giáo. Hoa kỳ phiền trách các hành động đàn áp nầy.” 

(Text of Statement issued by Department of State, Washington, on August 21: On the basis of information from Saigon, it appears that the Government of the Republic of Vietnam has instituted serious repressive measures against Vietnamese Buddhist leaders. The action represents a direct violation by the Vietnamese Government of assurances that it was pursuing a policy of reconciliation with the Buddhists. The United State deplores repr essive action of this nature) [Cité by Vu Van Mau, p.333].

12. Liên Hiệp Quốc: Những hình ảnh phật tử Việt nam bị đàn áp, bắt bớ, tù đày, vu khống bởi chính quyền Ngô Đình Diệm được đăng tải trên trang nhất của hầu hết các báo khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã không thể làm ngơ, ngày 24.9.1963, một phái đoàn đặc biệt được gởi đến Việt Nam để điều tra vụ Phật giáo. Mặc dầu chính quyền Ngô Đình Diệm không cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc tự do đến những nơi cần thiết để điều tra, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đã thu thập đủ bằng chứng để kết luận rằng ‘Phật tử Việt Nam bị chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết hại và cải đạo trong nhiều năm qua’. 

TÓM KẾT 

Cuộc tranh đấu Phật giáo, 1963, không nằm hạn hẹp trong việc đòi hỏi sự bình đẳng và quyền tự do tôn giáo, mà còn là một cuộc đòi hỏi công bằng xã hội và quyền được sống an hòa trong một quốc gia như bao nhiêu quốc gia khác trên thế giới.

Cuộc tranh chấp ý thức hệ mà Việt Nam là một bải chiến trường để đọ sức. Khí giới, bom đạn, hàng hóa bị thặng dư sau Thế chiến Thứ hai thì Việt Nam là một thị trường tốt để tiêu thụ. Người Việt trở thành nạn nhân nhưng được một số cường quốc che dấu bằng những danh từ hoa mỹ. 

Vì thế, cuộc tranh đấu Phật Giáo, năm 1963, được toàn dân, toàn quân ủng hộ và thế giới đồng tình. Sự tự hy hiến bi hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng như những ngọn lửa thiêng tiếp nối sau đó, là để chính phủ Ngô Đình Diệm tĩnh thức và thế giới lưu tâm. Kết quả là cộng đồng thế giới có lưu tâm nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm lại không đếm xĩa nên cuối cùng, chế độ mất lòng dân và ngược thời đại nầy đã bị sụp đổ.

Hai mươi thế kỷ, cùng chung với vận nước thăng trầm, lúc chinh chiến điêu tàn vì ngoại xâm, lúc hòa bình thịnh trị, lúc bị Nho gia uy hiếp. Nay, những ngọn lữa thiêng và biến cố 63 đã tạo cơ duyên cho PHẬT GIÁO CHẤN HƯNG, các tôn giáo khác cùng có cơ hội tốt để phát triển. Tạo một vận hội mới cho quy trình CANH TÂN ĐẤT NƯỚC, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào vận nước, vào thế chính trị quốc tế, vào ý chí của toàn dân và nhất là tùy thuộc vào những con người có từ bi, trí tuệ và dũng mãnh của thành phần lãnh đạo trong Giáo hội Phật giáo, cũng như những người lãnh đạo Quốc gia. 

Nhìn kết quả tuyệt vời mang tầm thế kỷ của Phong trào Phật Giáo 1963, đã tác động tâm tư nhân loại, được đón nhận và toàn thế giới đồng tình. Nhưng Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam, có nghĩ gì và làm gì cho Tổ Quốc và cho chính bản thân Phật giáo từ biến cố độc đáo xẩy ra từ 50 năm trước?

Bùi Kha 
11.06.2013

(Tham luận đọc tại "Hội thảo khoa học 50 năm phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam 1963 - 2013" tại Bình Dương ngày 11.06.2013)

*Hồng Y Spellman và Giáo Hoàng Pius XII vận động và đề nghị, chính phủ Mỹ thả từ 1 đến 6 quả bom Nguyên tử xuống miền Bắc, năm 1954, để giải cứu cho quân đội Pháp đang bị quân Việt Minh bao vây tại trận Điện Biên Phủ.
(a) Thượng Toạ Thích Tiêu Diêu, Đại Đức Thích Thanh Tuệ, ĐĐ Thích Thiện Mỹ, ĐĐ Thích Nguyên Hương, Sư Cô Thích Nữ Diệu Quang và phật Tử Đặng Thị Ngọc Tuyền.
(b) Giám Mục Puginier nhận định “Không có giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp (rồi đến người Mỹ) như cua bị bẻ gãy hết càng” (Sans les missionnaires et les chrétiens, ecrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabs auquels on aurait cassé toutes les pattes). 
(c) Tôi chỉ liệt kê vài người, khác tín ngưỡng, tiêu biểu. 

SÁCH THAM KHẢO 

1. Nhiều tác giả, “1963-2003, Bốn Mươi Năm Nhìn Lại”, Giao Điểm 2003.
2. Hoành Linh Đỗ Mậu, “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Ký Chính Trị”, Hoa Kỳ 1993.
3. Minh Không Vũ Văn Mẫu, “Sáu Tháng Pháp Nạn, 1963”, bản Ronéo 1984.
4. Appy, Christian G. “Patriots The Vietnamese War Remembered From All Sides”, New York 2003.
5. Browne, Malcolm W., “The New Face Of War, Revised Edition”, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York, 1968.
6. Buttinger, Joseph, “Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War”, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967. 
7. Nhat Hanh, “Vietnam:Lotus in a Sea of Fire”. Hill & Wang, Inc. New York,1967.
8. Savey, Grace, A Reader, “The American Experience in Vietnam”, edited by Grace Savey, University of Oklahoma Pess, 1989. 
9. Tucker, Spencer C. Editor “Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, 1997-1998”. 
10. Tuần báo “New York Times” (Nữu Ước Thời Báo), tháng 6-8.1963. 
11. “U.S. News & World Report”: Tháng 6-8.1963.
12. Tuần báo “Time”, tháng 6-8.1964.
13. Tuần báo “Washington Post”, tháng 6-8. 1964.
14. http://www.uwec.edu/greider/BMRB/culture/ tudent.work/hicksr/

Source : http://phatgiao.org.vn/tham-luan-sach/201306/The-gioi-danh-gia-nhin-nhan-nhu-the-nao-ve-su-kien-Phat-giao-nam-1963-HT-Thich-Quang-duc-10942/

Link: http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=7628

 


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage