Một
điều khó hiểu của Phật giáo đó là sự xuất hiện của các dạng hình tướng
phẫn nộ, khủng khiếp...Có thể nói đó là những hình tướng xấu xí, ghê rợn
đến sởn tóc gáy, và những hình tướng phẫn nộ này dường như đi ngược lại
với tinh thần Phật Giáo.
Những hình tướng này không hề là biểu
tượng cho cái ác hay là tượng trưng cho một ma lực nào đó...Mà thay vào
đó chính là tượng trưng cho sự dũng mãnh của thực tại căn bản của vũ trụ
nói chung, và tượng trưng cho tâm thức của con người nói riêng.
Ngoài
ra đó còn là sự tiêu diệt những mê muội hư vọng của tâm thức con người,
và mục đích của các vị còn là sự bảo hộ cho lòng tín, đức tin. Những hộ
thần phẫn nộ là những tượng trưng cho sự chế ngự dục vọng, đánh bại
những điều xấu xa.
Những
hộ thần thường có thân hình chắc nịch, ngắn nhưng dày... nhiều vị còn
có nhiều đầu nhiều tay. Màu sắc của khuôn mặt các ngài thường đựơc hay
so sánh với màu mây, màu đá quý...Đó là lý do tại sao trong các sadhanas
hay có những đoạn so sánh một vị hộ thần màu đen như đám mây xuất hiện
cuối trời, hay là xanh như màu ngọc lục bảo, hoặc trắng như một ngọn núi
pha lê, màu vàng như vàng ròng, hoặc màu đỏ như là những tia nắng nơi
ngọn núi san hô đỏ...Trong các sadhanas cũng có nói rằng các ngài phủ
đầy người một lớp tro của các buổi lễ trộn với dầu mè hoặc là phủ khắp
người những vết mỡ, những đốm máu và mỡ người.
Khuôn mặt của các
ngài thường có những biểu hiện như sau : miệng mở một cười giận dữ, từ
đó ló ra những chiếc răng nanh - người ta hay nói những chiếc nanh đó
được làm bằng đồng hoặc sắt. Những con mắt đỏ ngầu đầy máu biểu lộ cho
sự phẫn nộ. Thường thì các ngài có 3 mắt.
Điều quan trọng nhất
trong nhóm các hộ thần đó chính là nhóm 8 vị, được biết đến như là các
hộ pháp chính của Phật giáo Tây Tạng ( Bát Đại Hộ Pháp ), các hộ pháp
này được xem như những vị bồ tát, và các ngài có nhiệm vụ chiến đấu một
cách không khoan nhượng với bất kì thế lực ma quỷ nào cũng như những kẻ
thù của Phật giáo .
Họ bao gồm :
* Yama ( Dạ Ma )
* Mahakala ( Đại Hắc Thiên )
* Yamantaka ( Hàng Phục Dạ Ma )
* Kubera ( Tài Bảo Thiên Vương )
* Hayagriva ( Mã Đầu Minh Vương )
* Palden Lhamo
* Tshangs pa ( Phạm Thiên Trắng )
* Begtse
Yama: ( Dạ Ma ) Thần chết
Dựa
trên những truyền thuyết về nguồn gốc của Yama, một người đàn ông được
một vị thánh cho biết rằng nếu ông ta nhập định 50 năm ở trong 1 hang
động, ông ta có thể đạt được giác ngộ.
Thời gian cứ thế trôi đi,
đúng vào đêm ngày thứ 29 của tháng thứ 11 của năm thứ 49. Hai tên trộm
đã chạy trốn vào hang động của ông. Trong tay bọn chúng là cái đầu của
con trâu mà bọn chúng giết trộm. Sau đó chúng mới phát hiện ra rằng
người đàn ông đã biết được việc làm mờ ám của bọn chúng, bọn chúng quyết
định giết ông để bịt đầu mối.
Ông ta van xin bọn chúng tha mạng
cho ông, bởi vì chỉ còn vài phút nữa là ông có thể đạt tới giác ngộ. Nếu
bị giết chết trước thời hạn 50 năm thì mọi công sức của ông bị đổ sông
đổ bể. Bọn cướp phớt lờ trước lời van xin của ông ta, và cắt đứt đầu của
ông ta.
Ngay lúc đó, ông ta lập tức biến thành yama và đội cái
đầu trâu vào cái xác ko đầu của mình. Yama giết chết hai tên cướp và
uống cạn máu của chúng bởi cái chén được làm bằng sọ của bọn chúng.Trong
cơn điên cuồng báo thù, Yama đe doạ tiêu diệt hết tất cả dân Tây Tạng.
Người
dân Tây Tạng nguyện cầu đức Văn Thù Sư Lợi , xin ngài bảo vệ dân chúng
trước cuộc báo thù của Yama. Văn Thù Sư Lợi liền vận dụng thần thông hoá
thân thành Yamantaka ( Hàng phục dạ ma ), ngài đánh bại Yama,để cứu
giúp dân chúng, đồng thời ngài khiến Yama trở thành một trong những hộ
pháp của Phật giáo.
Đức Văn Thù Sư Lợi
Chúng
ta thường thấy Yama hay xuất hiện trong thangka với một phối ngẫu của
mình, Chamundi, là người dâng cho Yama một chén tiên dược máu quỷ ( cam
lồ máu ). Và những xác người chết như là thứ trang sức của Yama. Yama có
màu xanh đen của đầu con trâu.
Vương miện của Yama
Mahakala : Đại Hắc Thiên
Huyền
thoại về lịch sử của Mahakala được viết bởi Khedrup Khyungpopa, là
người sáng lập dòng truyền thừa Shangpa Kagyu, vào thế kỉ thứ 11. Ngài
dạy rằng sức mạnh đặc biệt cũng như năng lực kì diệu của Mahakala là do
nguyện lực của đức Avalokiteshvara ( Quan Thế Âm ). Ngài nguyện còn sinh
tử và quyết không thành Phật nếu còn chúng sanh chưa được giác ngộ. Sau
khi giúp hàng trăm ngàn người, trong vô số đời đạt tới giác ngộ . Ngài
thấy rằng sự đau khổ không hề giảm sút mà hơn thế nữa sự ô nhiễm trong
tâm thức chúng sanh ngày một tăng trưởng. Ngài thấy thất vọng, nhụt chí.
Lúc đó lập tức đầu ngài vỡ tan thành trăm ngàn mảnh vụn.
Phật A
Di Đà ( Amitabha) một trong 5 vị Phật ( Tỳ Lô Giá Na Phật, Bảo Sanh
Phật, Khai Phu Hoa Vương Phật , A Di Đà Phật, Thiên Cổ Lôi Âm Phật-nd )
ghép những mảnh vỡ lại, và biến thành 11 đầu. Sau đó ngài dặn dò đức
Avalokiteshvara hãy thực hiện lại lời nguyện đó một lần nữa, nhưng giữ
lời nguyện đó tốt hơn, kiên cố hơn. Do đó Avalokiteshvara có mười một
đầu, và trong đó có mười đầu là hiền hoà và một đầu là phẫn nộ. Đầu phẫn
nộ đó chính là đại diện cho Mahakala.
Ngài Avalokiteshvara
Ngài
Avalokiteshvara buồn bã, trong khoảng thời gian 7 ngày. Ngài nghĩ rằng
trên thế giới đầy những chúng sanh đau khổ cần một kết quả thật nhanh
chóng mà không phải có quá nhiều nỗ lực. Sau đó ngài muốn biến mình
thành một bổn tôn phẫn nộ để đánh bại nhanh chóng và hiệu quả hơn những
trở ngại cho hạnh phúc của người khác. Với tư tưởng này chữ HUM màu xanh
đậm xuất hiện từ trái tim ngài. Chủng tự Hum đó đã trở thành Mahakala.
Điều đó có nghĩa rằng trong câu thần chú 'Om Mani Padme Hum', chủng tự
Hum tượng trưng cho sức mạnh, quyền năng.
Chủng tự Hum của Tây Tạng
Thần chú Om Mani Padme Hum
Sự
xuất hiện của Mahakala kéo theo sự rung động của mặt đất, đồng thời có
giọng nói của chư Phật vang vọng trong không trung chứng minh rằng
Mahakala có đủ quyền năng làm ban phát những gì chúng sinh mong muốn nếu
những mong muốn đó là trung thực và tốt.
Mahakala là một hộ thần
giám hộ cho người thống trị Mông Cổ- Thành Cát Tư Hãn- lúc bấy giờ. Sự
phẫn nộ của Mahakala được xem giống như hoá thân phẫn nộ của thần Siva.
Ở Tây Tạng, về hình ảnh của Mahakala thường có một đầu và ba mắt, lông
mày như những ngọn lửa nhỏ và râu thì có dạng như hình móc câu. Mahakala
có từ 2 đến 6 tay.
Điều tự nhiên cơ bản mà dân Tây Tạng thường
thờ cúng Mahakala có lẽ là vì ngài là vị thần của lều trại. Bởi vì dân
Tây Tạng sống du mục, do vậy thời gian ở lâu mau là phụ thuộc vào thiên
nhiên và môi trường xung quanh, do vậy họ dùng lều trại, việc di chuyển
và định cư tạm thời là một phần quan trọng của cuộc đời họ.
Ngoài ra ngài còn là một Hộ Pháp rất quan trọng, bởi thế cho nên ở mỗi tu viện đều có một nơi thờ Mahakala.
Yamantaka ( Hàng Phục Dạ Ma )
Yamantaka,
là một hoá thân phẫn nộ của Văn Thù Sư Lợi ( Bồ Tát của trí tuệ ),
Yamantaka là hoá thân phức tạp và phẫn nộ khủng khiếp nhất trong tất cả
các hoá thân phẫn nộ của Phật giáo. Ở hoá thân này , Văn Thù Sư Lợi đã
hàng phục được thần chết Yama, khi mà Yama đang trong cơn khát máu điên
cuồng trả thù giết hại dân Tây Tạng .
Theo truyền thuyết, trong
đại định, Văn Thù Sư Lợi đi khắp tất các nơi trong địa ngục để tìm kiếm
Yama. Cuối cùng ngài đã tìm ra được nơi trú ngụ của Yama và các thuộc hạ
của mình đó là một thành phố sắt ở địa ngục. ( Yama lúc này mang hình
dáng thân người đầu trâu nước ).
Để điều phục Yama, Văn Thù Sư
Lợi sử dụng hình dạng như vậy, nhưng thêm vào đó tám đầu và nhân lên
nhiều tay, mỗi cánh tay đều cầm những thứ vũ khí đáng sợ. Và hơn thế nữa
từ trong thân ngài mọc ra thêm một số lượng chân tương ứng, xung quanh
ngài là một số lượng lớn những chúng sanh đang kinh hãi. Để đối đầu với
cái chết, ngài hiện thân như chính bản thân của thần chết được nhân lên
nhiều lần. Thần chết Yama thấy được bản thân nhưng sự khủng khiếp lại
gấp nhiều nhiều lần. Lúc này thần chết Yama gặp phải tình cảnh đúng
nghĩa là "sợ muốn chết".
Đó là lý do tại sao các nhà yogi khi
thực hành pháp yamantaka , thông qua hình tượng yamantaka họ sẽ phát
tiển được định lực đủ mạnh để đối diện với cái chết, cũng như các sự sợ
hãi về cái chết. Mỗi đầu, mỗi cánh tay, mỗi bàn chân cho đến từng thái
độ, từng món trang sức, tất cả biểu tượng đó của Yamantaka đều là những
mảng giác ngộ tối cần thiết cho việc đối diện với cái chết.
Cả
Yama và Yamantaka đều mang hình tướng là đầu trâu nhưng Yama thì luôn có
một món trang sức hình bánh xe ở trên ngực, đây là dấu hiệu đặc trưng
để phân biệt hai vị hộ pháp này.
Kubera (Vaisravana) ( Tài Bảo Thiên Vương )
Theo
thần thoại Hindu, Kubera là con trai của một nhà hiền triết gọi là
"Visravas", vì vậy ngài được đặt theo tên cha mình là "Vairavana".
Truyền thuyết nói rằng do sự tu tập nghiêm chỉnh, sự mộc mạc, chân thật
của mình trong hàng ngàn năm. Brahma ( Phạm Thiên ), đấng sáo tạo trong
thần thoại của Hindu, đã ban cho ngài sự bất tử và biến ngài thành vị
thần của tài bảo. Ngài là vị thần bảo hộ cho tất cả các kho tàng của
trái đất. Ngài sẽ ban phát kho tàng này cho những ai xứng đáng.
Nơi
ở của Kubera là ngọn núi Kailash ( một đỉnh núi linh thiêng, mà người
dân Tây Tạng rất hay hành hương tới, tương truyền ai tới được ngọn núi
linh thiêng này thì dường như đã tịnh hoá được rất nhiều nghiệp lực,
cũng như đã tiến một bước rất dài trong con đường tu tập - người dịch ).
Nhưng khi được Brahma bổ nhiệm làm Thần Tài Bảo, thì Brahma cho ngài
vùng Lanka ( Ceylon) làm thủ phủ của ngài.
Cũng dựa theo truyền
thuyết, ngài cũng được Brahma tặng cho chiếc xe pushpaka, là chiếc xe
khổng lồ và di chuyển theo ý nghĩ của chủ nhân với một tốc độ khủng
khiếp
Kubera cũng được thờ cúng bởi các Phật tử, ông được xem như
là một vị bảo hộ của phương Bắc ( trong một số tài liệu còn nói Kubera
chính là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, người trấn giữ ở phương Bắc, chủ về tài
bảo-nd ). Biểu tượng đặc trưng của ông chính là con chồn. Con chồn đặc
biệt này luôn nhả ra châu báu.
Theo
Phật giáo , ngài còn được gọi là Jambhala. Ngài luôn xuất hiện dưới
hình tướng to béo và được bao phủ bởi châu báu. Chân phải của ngài lúc
nào cũng đạp lên một cái vỏ ốc nằm trên một bông sen ( vỏ ốc này tượng
trưng cho tốc độ khủng khiếp của ngài ).
Hayagriva : Mã Đầu Minh Vương
Mã đầu minh vương đại phẫn nộ
Hayagriva
được thờ cúng ở Tây Tạng một cách chính yếu bởi những người buôn ngựa
bởi vì người ta tin rằng Hayagriva doạ và đuổi ma quỷ đi bởi tiếng ngựa
hí vang trời. Khi người ta thỉnh, ngài sẽ báo hiệu việc giáng lâm của
ngài bằng tiếng hí, đó là lý do có cái đầu ngựa trên đảnh đầu, một dấu
hiệu đặc trưng của Hayagriva.
Âm thanh vang ra từ đầu ngựa, theo
như truyền thuyết là có khả năng xuyên thủng màn vô minh, đem lại ánh
sáng chân thật của tự do. Thần chú của ngài có chứa những câu thơ như
sau.
"Nguyện cầu ngài bảo vệ đàn ngựa
Tăng thêm số lượng ngựa cái
Từ những con ngựa này sẽ sinh thêm nhiều chú ngựa con siêu phàm
Xin ngài hãy dẹp hết những chướng ngại trên đường
và hướng cho chúng con đi đúng hướng"
( do lối sống du mục của người Tây Tạng, nên ngựa là một thứ quan trọng ko thể thiếu trong sinh hoạt thường nhật của họ-nd)
Hayagriva
là một hoá thân phẫn nộ của đức Avalokiteshvara ( Quan Thế Âm ), theo
những khảo cứu thì có tới 108 hình tướng của Hayagriva. Năng lực đặc
biệt của ngài là chữa bệnh, nhất là các bệnh về da, thậm chí cả những
bệnh về da khá trầm trọng như là bệnh phong. Bệnh này được tin rằng do
Naga gây ra ( Naga là loài rồng nhưng có hình tướng giống như rắn, rất
thích sống ở khu vực sông nước, ao hồ, biển cả... nd)
Hình tướng
đơn giản nhất của ngài thì có một mặt, hai tay và hai chân. Tất cả mọi
thứ về ngài đó là khuôn mặt đáng sợ với ba con mắt, cái miệng đang gầm
rống đầy những răng nanh, tư thế đứng của một chiến binh, chiếc bụng to
lớn ẩn chứa một nội lực phi phàm trong đó. Tay phải ngài vung thanh kiếm
để đe doạ đối phương, tay trái giơ lên phụ trợ trong một tư thế đáng
sợ, đồ trang sức của ngài đó là những con rắn.
Hayagriva với hình tướng đơn giản
Nét
đẹp của ngài lại là những điều đáng sợ nêu ở trên, bởi vì chính cái
khía cạnh đáng sợ đó lại là biểu lộ của sự từ bi, chính cái đáng sợ đó
giúp ta buông bỏ được bản ngã, và xuyên thủng được màn vô minh....
Palden Lhamo : Vị nữ thần
Palden
Lhamo là vị nữ hộ pháp duy nhất trong nhóm 8 hộ pháp lớn của Phật giáo.
Ngài là nữ hộ pháp bảo vệ cho chánh pháp ở khắp mọi nơi, bao gồm cả đức
Đạt Lai Lạt Ma và nhà nước Tây Tạng, thủ phủ Lhasa. Đồng thời ngài cũng
là nữ hộ pháp cho đất nước Trung Quốc từ triều đại nhà Yuan (Nguyên -
thế kỉ 13) cho tới những ngày cuối cùng của triều đại nhà Qing ( Thanh )
đầu thế kỉ 20.
Ở Ấn Độ, Palden Lhamo còn được gọi là Shri Devi.
Ngài còn là là nữ thần Okkin Tungri ở miền Bắc Mông Cổ. Ngài cũng được
xem như là một hoá thân phẫn nộ của Saraswati ( Biện Tài Thiên-nd ) vị
nữ thần của sự học tập, của sự biện tài ( ăn nói ), và của âm nhạc. Một
hoá thân khác của ngài là Chamudi, phối ngẫu của Yama. Lại cũng có
thuyết nói ngài là phối ngãu của Mahakala.
Là nữ hộ pháp duy nhất
trong việc bảo vệ chánh pháp, thế nên tương truyền rằng những thứ vũ
khí của ngài vốn là được các thần khác trao tặng. Hevajra tặng cho ngài
hai hạt xúc xắc để định đoạt sinh mạng của con người, Brahma tặng ngài
chiếc quạt làm bằng lông công, từ Vishnu ngài được tặng hai chiếc đèn
sáng rực ( giống như hai viên ngọc toả hào quang-nd ). Một chiếc thì
được ngài cài trên đỉnh đầu, chiếc còn lại được ngài đeo vào ngang eo.
Kubera, Thần Tài Bảo, đã cho ngài một con sư tử ( trang sức hình sư
tử-nd ) và được ngài đeo ở tai phải. Nanda, Thần rắn, đã ban cho ngài
một con rắn ( trang sức hình con rắn-nd ) và được đeo ở tai trái của
ngài. Từ Vajrapani ( Kim Cang Thủ ) ngài nhận một chiếc búa sấm sét.
Những vị thần khác ban tặng ngài một con la, được bao bọc bởi bộ da của
quỷ Dạ Xoa, và có những con rắn độc quấn quanh bụng. Người ta hay thấy
ngài cưỡi con la này đi du hành khắp muôn phương.
Tôn tượng của Palden Lhamo
Ngoài
ra còn có một truyền thuyết nói rõ hơn về sự từ bi của ngài. Tương
truyền là ngài đính hôn với một vị vua tên là Shenji, người vừa là một
vị vua khát máu vừa là một chiến binh bạo tàn, ông ta từ chối hết những
lời yêu cầu của Palden Lhamo khẩn cầu ông dừng giết hại dân chúng vô
tội. Cuối cùng ngài đành đưa ra một tối hậu thư :
Nếu ko dừng
giết hại, bà sẽ giết những đứa con của mình có với nhà vua, để cho ông
có thể trải nghiệm về nỗi đau người thân bị giết hại mà ông ta gây ra
cho những người khác.
Shenji vẫn không dừng, thế là ngài thực
hiện lời đe doạ của mình. Trước cái chết của con trai mình, ông ta đã
buộc phải dừng lại.
Ngài hay được thấy mang theo xác của con trai
mình trên lưng con la đi khắp nơi. Đây là biểu tượng cho quyết tâm
không dừng lại trước bất cứ điều gì để đem lại sự an bình cho tất cả.
Tshangs Pa ( Phạm Thiên Trắng )
Brahma
(Phạm Thiên) , là một vị thần quan trọng nhất đối với đạo Hindu, tuy
nhiên đối với Phật giáo thì Phạm Thiên chỉ chiếm một ví trí thứ yếu. Tên
tiếng Tây Tạng của Brahma là Tshangs Pa, chúng ta thường biết đến
Brahma với hình tượng 4 đầu 2 tay. Nhưng trong Phật giáo Tây Tạng ngài
luôn được biểu hiện với màu trắng, 1 đầu 2 tay và được gọi là "Tshangs
pa dkar po". Có nghĩa là Tshangs Pa Trắng.
Hình tượng Brahma trong Hindu giáo
Cũng
theo như các sadhana, đây cũng là hình tượng của Brahma. Người ta
thường thấy ngài ngồi trên lưng con ngựa trắng, giơ cao thanh gươm, đôi
lúc có đeo lá cờ sau lưng. Ngài là một vị thần của chiến binh, nhưng
không hiện thân quá khủng khiếp và man rợ. Đằng sau chiếc vương miện
ngài là chiếc khăn mỏng có chứa cái vỏ ốc ( một trong những biểu tượng
cát tường thường thấy của Tây Tạng-nd ). Ngài mặc những bộ quần áo dài
tay và "bồng bềnh như mây".
Mặc dù các truyền thuyết đằng sau
nguồn gốc của ngài, không có gì không khế hợp với Brahma, song chúng ta
có một truyền thuyết khá thú vị:
Ngày xưa khi ngài ra đời, và
được đặt tên là Tshangpa karpo. Ngài lớn lên với đầy đủ sự hùng mạnh,
ngài thường dạo khắp nơi trong vũ trụ trên lưng một con ngựa vàng.Vào
ban ngày thì ngài dạo chơi trên bầu trời, tới ban đêm thì mới đáp xuống.
Vào một ngày nọ, ngài đến các cung trời. Sau đó ngài lừa được một nữ
thần ( có thể là thiên nữ-nd) tên là Dhersang, và ăn trộm được viên ngọc
như ý của thần. Xui xẻo thay, ngài không thể trốn thoát kịp vì bị một
vị thần bảo hộ của cung trời này dùng chiếc lưỡi của mình tóm lấy ngài
và ném ngài trở về lại mặt đất, lấy lại viên ngọc như ý đó từ tay ngài,
cũng đồng thời lấy luôn trái tim của ngài.Hơn thế nữa ngài bị ép phải
hứa hôn với nữ thần Dhersang.
Tsangpa
Thất
vọng vì sự bại trận của mình, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình của
mình trong vũ trụ. Ngài bắt đầu giết tất cả những người thanh niên ở
những nơi ngài đi qua, và cưỡng bức những cô gái mà ngài gặp. Một ngày
nọ ngài gặp nữ thần Ekajati. Với ý định quấy rầy nữ thần, ngài bắt đầu
buông lời ong bướm. Nữ thần Ekajati nổi giận và dùng chiếc khăn tơ lụa
của mình đang choàng trên người để đánh ngài.
Ekajati - Bà mẹ khủng khiếp
Bị
đánh vào đùi, chân ngài lập tức gãy lìa. Cái đánh của nữ thần ngay lập
tức khiến cho ngài giác ngộ và trở thành một trong những hộ pháp của
Phật giáo. Cái đánh này không có ý nghĩa là hành hung trên một khía cạnh
vật chất. Nó chính là sự tấn công vào các phần tiêu cực, các khía cạnh
đen tối của tâm thức và chuyển hoá nó. Bởi vì sức mạnh, năng lực vô biên
của ngài được chuyển hướng vào việc bảo hộ và cúng dường cho chân lý,
đã khiến ngài trở thành một trong những vị đại hộ pháp của Phật giáo.
Trong lịch sử, đây cũng chính là hình ảnh đại diện cho sự hội nhập của
tôn giáo cổ của Tây Tạng ( đạo Bon ) vào đạo Phật bởi đạo sư vĩ đại
Padmasambhava ( Liên Hoa Sanh ).
Begtse: Thần Chiến Tranh
Người
chiến binh man rợ này, vốn là một dạ xoa, là vị thần của chiến tranh ở
vùng Trung Á, mặc áo giáp và trang phục của quân Mông Cổ, xuất hiện
trong Phật Giáo Tây Tạng vào nửa cuối thế kỉ 16, là hộ pháp cuối cùng
gia nhập vào nhóm 8 vị hộ pháp.
Yaksha - Dạ Xoa Theo
truyền thuyết,Begtse, người lãnh đạo của một đội quân động vật,xuất
hiện khi Dalai Lama, được mời từ Tây Tạng tới Mông Cổ do vua của Mông Cổ
lúc bấy giờ là Atlan Khan ( con cháu của Thành Cát Tư Hãn-nd) để chuyển
dổi Phật giáo thành quốc giáo của Mông Cổ.
Biết được việc này
nên đức Dalai Lama liền hoá thành Quan Âm Tứ Thủ Avalokiteshvara, vị Bồ
Tát của lòng từ bi, hai tay của ngài chắp trước ngực tạo thành ấn nguyện
cầu. Bước chân của con ngựa ngài cỡi, in lên trên cát không phải là dấu
chân mà lạ thay lại là câu thần chú Om Mani Padme Hum.Tận mắt chứng
kiến phép màu này, Begtse liền tin tưởng ngay vào tính ưu việt, sự vượt
trội của Phật giáo và tự động quy phục, và chuyển sang Phật giáo. Người
ta nói sự quy phục của Begtse chính là hình tượng cho việc chuyển đổi
quốc giáo của Mông Cổ thành Phật giáo.
Ngài
là xuất hiện với đầy đủ các thứ phục trang như các hộ pháp khác, giơ
cao một thanh gươm ( cán gươm có hình con bò cạp ) trong tay phải. Tay
trái thì nắm một chiếc đầu của kẻ thù màu cam, ta còn có thể thấy ngài
giương cung tên cùng lúc đó. Ngài đạp lên xác chết của người đàn ông
bằng chân trái, chân còn lại thì ngài dẫm lên cái xác chết của con ngựa.
Ba con mắt của ngài đầy sự phẫn nộ,nhìn trừng trừng đủ để đe doạ những
kẻ phá hoại chánh pháp.*
Đôi lời tự sự : Cuối cùng Thiện Duyên đã
hoàn tất được bài viết về Bát Đại Hộ Pháp. Thật sự nhân duyên khiến
Thiện Duyên gắng sức, chính là muốn góp một phần sức nho nhỏ của mình
cho mọi hành giả Phật giáo và nhất là những hành giả của Kim Cang Thừa
biết rõ hơn về chư vị hộ pháp. Cũng xem đây như là một món cúng dường
của Thiện Duyên và các bạn đồng học đếnTam Bảo, đến dòng truyền thừa,chư
tổ, đến đức bổn sư HH18th Dromtug Rinpoche Losang Choekye Pelden và bổn
sư HH Gyalwang Drukpa XII của mình...
Xin nguyện chư vị hộ pháp thường hằng hộ niệm tất cả chúng sinh cho tới tận rốt ráo viên thành quả vị.
Do
cũng có lấy nguồn tài liệu từ nước ngoài, mà khả năng dịch thuật lại
còn có giới hạncho nên nếu có sai sót gì xin mọi người niệm tình bỏ qua.
Mọi sai sót nếu có đều là do người dịch, mọi công đức nguyện hồi hướng tới tất cả chúng sanh.
Theo: www.exoticindiaart.com