Còn nếu không
có những đức tính nêu trên lại thêm rượu chè say sưa , đánh đập vợ con
,bỏ phế gia đình , chúng ta viết hoặc kể về họ như thế nào đây ? Ba
Thầy sinh năm Tân Hợi ( 1911 ) nếu còn sống đến giờ thì ông cụ được 92
tuổi , nhưng cụ đã mất từ năm 1972 ,thọ
62 tuổi . Không còn gia phả để lại và tộc họ cũng chẳng còn ai để hỏi ,
nên Thầy cũng chẳng biết gì nhiều về giòng họ phía nội của mình . Ba
với Mẹ Thầy như lửa với nước không hạp nhau một điều gì , gần nhau là
kình cãi , đôi khi đánh lộn
nữa . Hai người có hai nhà và ở riêng , thỉnh thoảng Ba mới về thăm vợ
con một lần , những lần đó tối lại hai cha con ngủ chung . Trí nhớ Ba
tốt , Ba kể rất nhiều chuyện cho Thầy nghe : Tây Du Ký, Phong Thần , Tam
Quốc Chí, ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa , Tổng Đốc Nguyễn Thân làm
tay sai cho Pháp , và cái chết báo ứng của ông Tú Huệ …đôi khi có kể qua
lý lịch của giòng tộc mình , đến bây giờ Thầy chỉ còn nhớ man mán
. Ba kể :” Ông Nội con là một nhà nho , sinh được 9 người con
nhưng chỉ nuôi được có 3 người . Cô Ba sinh ra mẹ cháu Nga ( người cháu
này nay đã có 8 người con , hiện ở tại Cư Xá Thanh Đa- Sài Gòn ) . Bác
Năm sinh ra cháu Chánh ( người cháu này hiện nay đã 70 mươi tuổi , ở Hà
Tam , An khê , Gia Lai ) . Cô Mười sinh ra cháu Chiến ( người cháu này
vừa mới mất tháng 11 năm 2001 , thọ 60 mươi tuổi ) . Trong gia đình Ba
thứ Chín, riêng Ba chỉ sinh được con và em con , giòng tộc mình hữu sinh
mà vô dưỡng nên con cháu rất ít “ . Còn về Ba Thầy , Thầy biết
cũng rất ít . Thầy không biết Ông Cụ có bằng cấp gì không ( từ đây Thầy
gọi Ba Thầy là Cụ cho gọn ) nhưng Cụ nói được tiếng Pháp , viết và đọc
được chữ Hán chữ Quốc Ngữ . Nghề nghiệp thì có nghề hớt tóc , sống bằng
nghề này cho tới khi mất .
Ông
cụ tính rất hài hước , sống bằng nghề hớt tóc nên trước nhà , chái
thêm mái hiên sáu tấm tole , đặt một chiếc ghế quay tròn được và treo
một tấm kính cỡ lớn cho khách soi mặt . Cụ hớt tóc rất đẹp nhưng rất ít
khách nên thường xách cần đi câu cá giải buồn . Có lần Cụ nói vui : “ Ba
đi câu là câu thời câu vận chớ không phải là để có cá . Ba câu kiểu
của Khương Tử Nha đời nhà Chu bên Trung Quốc , lưỡi câu không móc mồi ,
chừng nào cá cắn câu thì ông sẽ gặp thời , lúc đó ông sẽ ra phò vua giúp
nước . Ông Cụ nói vui vậy chứ thực ra Cụ có nhiều kinh nghiệm câu cá
nên câu được nhiều cá lắm ! Nấu nướng thì khỏi chê , những con cá rô, cá
trê ,cá luối được Cụ gia vị đúng kiểu rồi nướng vàng hươm dằm nước mắm
ớt tỏi , làm thức nhắm cho chai rượu của Cụ ,và sau đó thì gia đình sẽ
xáo tung lên , làng xóm sẽ nhức óc vì tật nói dai của cụ . Những
hôm ngồi từ sáng đến chiều không có khách đến hớt tóc , Cụ nói với Thầy :
“ Ba hớt tóc là chỉ để vui thôi , có tiền không tiền cũng được , vậy mà
cả ngày không có ai đến hớt tóc hết , kể cũng hơi buồn . Ngày mai con
ra đứng trước nhà thấy ai tóc dài quá cỡ thì kéo vô quán ba hớt cho “
hớt công quả thôi ,miễn sao có người vô ra quán vừa hớt vừa nói chuyện
cho vui” . Một người lãng tử bất đắc chí ,thích nhậu như Cụ ,
không hiểu nhân duyên nào đưa đẩy Cụ tiếp cận với Phật Pháp . Cụ có
Pháp Danh hẳn hoi . Vị thầy truyền giới là Thầy Thiện Đức ,Thầy Bổn Sư
đặt tên đạo cho Cụ là Trung Tán . Ông Cụ thế danh là Nguyễn Trợ , Pháp
Danh là Trung Tán . Ghép lại là Trợ Tán (Trợ Tán có nghĩa giúp cho đám
tang ) . Người xưa khi đặt tên rất cẩn trọng , không hiểu sao Thầy
Thiện Đức lại đặt tên đạo cho Cụ như thế . Có phải do tên quá trệ hay
không mà cuộc đời Ông Cụ không ra gì hết , cứ nói sinh không gặp thời
rồi không làm gì hết . Đời Cụ không có hạnh phúc , không thành đạt
trên con đường công danh sự nghiệp . Vợ chồng chỉ là chắp vá khi tuổi
đã cao , quá rượu chè nên gia đình luôn lủng củng , không mấy khi Ba Mẹ
Thầy ngồi ăn cơm cùng mâm với nhau . Gia đình luôn có cảnh trống đánh
xuôi kèn thổi ngược . Con cái thì thương mẹ binh Mẹ nhiều hơn Ba, thành
thử Cụ rất cô đơn . Có phải vì quá cô đơn muộn phiền mà Cụ tìm đến rượu
để giải sầu ? Có phải vì suốt kiếp làm người Cụ không hề có hạnh phúc
thương yêu nên Cụ mong ước đời hai đứa con mình được hạnh phúc , đừng
giống như mình . Có lẽ chính từ ước vọng đó mà Cụ đặt tên cho anh em
Thầy là Hạnh Phước ( từ Hán Việt Phước và Phúc cùng nghĩa . Gọi Phước
Lộc Thọ hoặc Phúc Lộc Thọ đều được ) . Thầy tên Phước còn mẹ sư chú
Thường Chiếu tên Hạnh . Sư Chú Thường Chiếu có tên khai sinh là Nguyễn
Khải Ngộ , lúc mới sinh ra do Thầy đặt .Thầy mong ước cháu mình khai mở
sự hiểu biết , tỏ ngộ tự tâm, và hơn hết là đi theo dấu chân Phật , chân
Thầy . Sư Chú Thường Chiếu tức là Sư anh các con đi xuất gia theo Thầy
từ nhỏ đến giờ . Thầy rất kỳ vọng , còn tương lai thành tựu được
tới đâu còn tuỳ thuộc ở sự nỗ lực tu tập tự thân . Chỉ trong vòng
15 năm nay Thầy mới biết thương Ba,còn thời gian trước đó Thầy không hề
biết thương . Nhờ Phật soi sáng , cái thấy cái biết của Thầy khác ngày
trước . Tìm hiểu rõ nguyên nhân lầm lỗi ,vụng về , tật chứng , sai quấy
của người rồi thông cảm cho qua . Bản chất con người là thiện , nhưng do
di truyền , do tập khí , do hoàn cảnh kinh tế khó khăn đưa đẩy , do
sống trong cộng đồng người tốt ít mà người xấu nhiều , do môi trường
giáo dục không tốt , do sống trong gia đình không có hạnh phúc vân vân
và vân vân . Chính những nguyên nhân nêu trên khiến cho con người trở
thành xấu ác , không dễ thương . Nhờ tuệ giác của Phật khai mở
nên Thầy mới biết thương Ba ,thấy Ba đáng thương chớ không đáng trách .
Bởi vậy mỗi năm tới ngày 25 tháng 08 âm lịch –ngày kỵ giỗ Cụ –Thầy cúng
giỗ rất chu đáo . Bà con Phật tử xa gần đều đến dự kỵ và cầu siêu cho
Ông Cụ . Sau khoá lễ cầu siêu Thầy hay kể lại cuộc đời của Ông Cụ ,cho
bà con phật tử nghe , để qua đó mà rút tỉa cho mình một bài học .
Từ lâu Thầy muốn kể cho các con nghe về cuộc đời của Ông , nhưng chưa có
dịp nào để kể . Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu ,Phật Lịch 2546 Thầy kể tóm
tắt lại cuộc đời của Ông cho các con rõ , rằng chân dung của Ông Nội
trong gia đình tâm linh của mình như thế đấy . Thương một đời bất hạnh
của Ông tới ngày giỗ Ông ,các con nhớ tụng cầu siêu cho Ông một biến
Kinh A Di Đà .
Chùa Bửu Minh ,Gia Lai ngày 22/05/năm Nhâm Ngọ.(2002)
Thầy của các con
Thích Giác Tâm