Mùa thu nước lên có những chiếc thuyền thúng câu cá bập
bềnh trên mặt hồ và những chiếc vó bè bờ bên kia thấp thoáng trong
sương mù. Mùa hè nước rặc mặt hồ có nhiều người đi bắt cua, nơm cá. Đôi khi nghe được tiếng hát nổi chìm trong sương khói những buổi chiều yên ắng.
Phố xưa Hà Nội. Ảnh: TL internet
|
Góc si già lối rẽ vào đường đôi ra phố có quán nghèo người thương binh già
bán chè chén, dăm bảy anh xe ôm thợ xây thợ mộc ngồi thong thả nhả khói
thuốc lào. Phía sau đó là chợ làng Đại Từ khi đông nghịt khi thưa thớt
dân quê lẫn với dân thị thành. Và trên cao bao giờ cũng có những chiếc
diều no gió đứng yên giữa trời xanh.
Nếu không có tiếng còi tàu vẫn hú lên khẩn thiết, tiếng còi xe réo gắt đuổi theo nhau và tiếng loa truyền thanh phường
vẫn bền bỉ nói những điều không ai buồn để ý, thì tôi sẽ đinh ninh đây
chính là miền quê thanh vắng của tôi hoặc Hà Nội nghìn năm trước.
Hà Nội nghìn năm trước thế nào làm sao tôi biết, tôi
chỉ đoán chừng nó cũng na ná Hà Nội qua cửa sổ nhà tôi. Và tôi yêu Hà
Nội như thế hơn rất nhiều lần
Hà Nội của cao ốc, của xe cộ, của nhà hàng, của những đường phố nghìn
nghịt người qua lại, dẫu biết rằng sự phát triển là tất yếu, không ai có
thể cưỡng được và cũng không ai muốn cưỡng.
Tôi yêu Hà Nội có Lý Thường Kiệt, một người Hà Nội gốc ở phường Thái Hòa - phố Bưởi ngày nay, cưỡi ngựa trắng vượt sông Như Nguyệt, với bài thơ Nam quốc sơn hà như một khúc ca yêu nước vang vọng mãi muôn sau.
Tôi yêu Hà Nội có chùa Diên Hựu, có hồ Dâm Đàm, có chùa Trấn Quốc, có hồ Lục Thủy
nơi rùa vàng nổi lên dâng gươm thần cho Lê Thái Tổ cứu nước trừ gian.
Khi đất nước an ninh, rùa vàng lại nổi lên đòi lại gươm thần và nhà vua
đã nhẹ nhàng trả lại như không, cho hay binh đao nước Nam ta chỉ để trấn
quốc, không bao giờ để hại nhau.
Tôi yêu Hà Nội có điện Diên Hồng, nơi vua Trần Thánh Tông hỏi muôn dân hòa
hay là đánh. Việc thiên tử cúi xuống hỏi dân đen làm cảm động cả đất
trời. Thế mới biết một khi triều đình thực bụng coi dân làm gốc, chứ
không phải chỉ đầu môi chót lưỡi, thì không có việc khó nào trên đời lại
không thể vượt qua.
Rất nhiều lần đi trên đường Hoàng Diệu có những cây xà cừ cao vút, tán lá sum suê, tôi cứ có cảm tưởng hương hồn vị tổng đốc Hà Nội quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh vẫn còn trên những tàng cây kia, tỏa bóng mát xuống tâm hồn những người yêu Hà Nội.
Khi triều đình vứt giáo qui hàngthì ông cũng vứt ngay hai chữ trung vua để đội lên đầu hai chữ xã tắc, đội đến chết không rời. Hà Nội đã có tượng Lý Thái Tổ, người anh hùng dựng nên đất Thăng Long, đã có hay chưa tượng Hoàng Diệu, người anh hùng đã chết vì Hà Nội?
Không có những anh hùng như Lý Thái Tổ sẽ không có Hà
Nội, không có những anh hùng như Hoàng Diệu thì Hà Nội đã tiêu vong,
nước Việt ta cũng đã tiêu vong. Hỡi ôi điều giản đơn như cây cỏ nhưng
không phải ai ai cũng thấm nhuần.
Đôi khi tôi rời thế giới ảo internet, nơi có bao nhiêu
chuyện đau buồn, nơi này đất lở người chết, nơi kia lũ cuốn nhà trôi… để
về thế giới thật, nơi phố phường tráng lệ, thấy cuồn cuộn những dòng
người lao vào cuộc mưu sinh, cuộc kiếm chác, cuộc tranh giành đen đỏ,
lòng bỗng dưng se lại, chẳng dám trách ai chỉ một mình buồn thiu.
Thế giới ảo Biển Đông đang nổi sóng, dân chài ta khốn
khổ vì tàu lạ, đảo Hoàng Sa đang bị cầm tù, hình như chẳng liên quan gì
đến thế giới thật, trên sạp báo, trong nhà hàng tiếng nói cười hân hoan
mừng thắng lợi. Cũng chẳng dám trách ai chỉ thấy mình lạc lõng.
Hà Nội từ nghìn xưa đến nay có cây xanh có ao hồ có vỉa
hè, thiếu ba thứ đó không ra Hà Nội. Vỉa hè bị chiếm dụng chật ních, bị
xua đuổi rỗng không. Cây xanh đã già, đã đổ vì bão, vì bị cưa trộm chặt trộm, đã phủ một lớp bụi trắng xóa. Đa phần các ao hồ bị ô nhiễm, bị bức tử, bị san lấp vì một nghìn lý do của ham hố của quan liêu.
Hà Nội vẫn còn đó rực rỡ ánh đèn, xe cộ đủ loại sang
trọng chen chúc trên những con phố được làm ra cho người đi bộ và xe
đạp. Còn đó những ngôi nhà cao tầng với kiến trúc hiện đại và sang
trọng, những công viên bóng nhoáng, những nhà hàng giàu có. Còn đó bao
nhiêu trai thanh nữ tú ngựa xe như nước áo quần như nêm, các gương mặt đều sáng tươi hạnh phúc. Nhưng sao tôi vẫn thấy dửng dưng.
Nhưng sao tôi vẫn thích ngồi ngắm Hà Nội của tôi qua ô cửa sổ. Tôi không biết vì sao, thật tình là như vậy.
Có lẽ tâm hồn cổ lỗ của tôi chỉ biết thương nhớ Hà Nội nghìn năm xưa, nơi hồn Việt chất đầy thơm thảo. Nơi có những người Hà Nội như Lý Thường Kiệt, như Hoàng Diệu. Nơi có những đàn cò trắng chiều chiều vẫn bay về đậu trên những tàng cây sấu, và giờ đây thỉnh thoảng vẫn bay về đậu trắng bờ hồ Linh Đàm. Ôi đàn chim Việt, chúng đã có trên mặt trống đồng nghìn năm xưa, ta vẫn gọi đấy là đàn chim Lạc.
Tùy bút Nguyễn Quang Lập