Ðến "bình đẳng tuyệt đối" là sao? Tất cả người thế gian, nhất là
sống trong thời văn minh hiện nay, ai cũng đòi được bình đẳng,
được tự do. Nhưng điều đó với cái nhìn của đạo Phật chỉ là bình
đẳng tương đối, tự do tương đối, chớ chưa phải tuyệt đối. Bình đẳng
tự do của đạo Phật mới là bình đẳng tự do tuyệt đối. Chúng tôi sẽ
tuần tự dẫn chứng cho tất cả thấy điều này.
Trong kinh Trường A-hàm có kể: Thuở Phật còn tại thế, Ngài nhìn
thấy những hoa sen hoặc đã có nụ, hoặc gần nở, hoặc nở tròn, Ngài
liền nói: "Tất cả hoa sen nở ra tròn trịa thơm tho, đều phát xuất
từ bùn sình hôi hám." Chúng ta cũng thấy rõ có đoá hoa sen nào nở ở
chỗ sạch không? Hoa sen nào cũng phát xuất từ bùn nhơ rồi từ từ
vượt ra khỏi bùn, khỏi nước để sau đó trổ hoa thơm ngát. Hoa trổ
rồi và hoa chưa trổ đều như nhau, mầm sen cũng phát xuất từ bùn.
Ðức Phật dụ bùn như ngũ dục, tất cả chúng ta sanh ra trong ngũ
dục. Nhưng nếu đắm chìm mãi trong ấy thì mình không cất đầu lên
nổi, không thoát ra được nên gọi là chìm. Nếu khéo vượt ra khỏi
vũng bùn ngũ dục, lần lần chúng ta sẽ trong sạch, tiếp tục vươn lên
khỏi mặt nước, rồi sẽ trổ hoa. Ðức Phật cũng vậy, trước kia sanh
trong cung vua Tịnh Phạn, từ nhỏ cho tới lớn Ngài thụ hưởng ngũ dục
rất nhiều, cũng có vợ con. Nhưng sau đó thức tỉnh, Ngài bỏ tất cả
vượt thành xuất gia. Nghĩa là Ngài cũng từ bùn ngũ dục thức tỉnh
vượt ra mới ngộ đạo.
Tất cả chúng ta cũng thế, ở trong ngũ dục nếu khéo thức tỉnh
vượt ra, tu hành có ngày cũng ngộ đạo như Phật không khác. Ðức Phật
là con người đi tu, thành Phật. Chúng ta cũng là con người đi tu,
chẳng lẽ không thành Phật? Cho nên cái nhìn của đức Phật là cái
nhìn bình đẳng tột cùng. Với con mắt chúng sanh, Phật và chúng ta
cách xa muôn dặm, nhưng Phật thấy Ngài và chúng ta đều có khả năng
thành Phật như nhau. Ðó là kinh A-hàm.
Ðến các kinh Bắc tông như Pháp Hoa, Niết-bàn, Hoa Nghiêm v.v.
đều tán thán câu Phật đã nói "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh",
nghĩa là chúng ta ai ai cũng có Phật tánh. Có Phật tánh tức là
chúng ta tu cũng sẽ thành Phật, không nghi ngờ gì nữa. Vậy trên
phương diện đã tu và chưa tu thì Phật và chúng ta khác muôn trùng.
Nhưng nhìn trên phương diện Tánh giác sẵn có thì mình không thua
Phật. Rất tiếc chúng ta chưa thấy, chưa nhận ra nên không như Phật.
Một bên đã tu, đã sửa, đã dẹp được vô minh phiền não nên Tánh giác
hiện bày đầy đủ, một bên còn nguyên vẹn vô minh phiền não nên Tánh
giác bị khuất đi.
Như vậy chúng ta muốn thành Phật phải làm sao? Phải dẹp vô minh
phiền não, nếu không chịu dẹp thì muôn đời muôn kiếp cứ làm chúng
sanh mãi. Hiện tại chúng ta thấy có người khôn kẻ dại, người sang
kẻ hèn sai biệt, nhưng trên Tánh giác thì bình đẳng không sai biệt.
Ðó là tính bình đẳng tuyệt đối trong đạo Phật.
Kế đó, đức Phật bảo rằng: "Ta là Phật đã thành, các ngươi là
Phật sẽ thành." Phật không thấy mình là đấng tối cao, không ai bì
kịp. Ngài khẳng định chỗ ấy ta đã đến, các ông tu cũng sẽ đến,
không ai thua ai cả. Như vậy có phải bình đẳng không? Ðó là bình
đẳng chân thật. Chúng ta cứ nghĩ rằng chỉ có Phật mới tu được thành
đạo, còn mình vô phần. Ðó là một điều sai lầm. Từ sai lầm này
chúng ta làm cho mình trở thành yếu đuối hèn nhát.
Nên người biết tu Phật phải nhận ra con đường Phật đã đi và đã
đến, Ngài chỉ lại chúng ta đi rồi cũng sẽ đến, chớ không khác. Chư
Phật ra đời đều vì một mục đích duy nhất, là chỉ dạy cho chúng sanh
được thành Phật như các ngài. Trong kinh Pháp Hoa, Bồ-tát Thường
Bất Khinh gặp ai cũng bái bái nói: "Tôi không dám khinh các ngài,
vì các ngài đều sẽ thành Phật." Dù bị mắng rầy, chọi đá, phang gậy,
Ngài chạy xa rồi cũng bái bái nói như thế.
Câu nói ấy vô lý hay rất thiết yếu cho sự tu hành? Mới nghe
chúng ta thấy như vô lý, nhưng thật ra đó là câu nhắc nhở rất thiết
yếu cho việc tu hành. Bởi tự thấp mình nên ta không dám nghĩ tới
ngày mai sẽ thành Phật, vì thế tu hành lười biếng. Tu chút chút
miễn đời sau khỏi khổ được rồi, chớ không mong gì thành Phật. Ðó là
căn bệnh yếu đuối của chúng ta. Vì vậy Bồ-tát Thường Bất Khinh
đánh thức, khuyến khích, khẳng định mọi người đều có khả năng thành
Phật, chúng ta mới thức tỉnh, nỗ lực tinh tấn tu hành thì quả vị
Phật nhất định sẽ đạt được. Lời dạy đó là một sự đánh thức mãnh
liệt mà nhiều người không biết.
Ðức Phật thường nói: "Ta là bậc Ðạo sư hướng dẫn chỉ dạy cho mọi
người con đường đi." Ðạo sư là gì? Ðạo là đường, sư là thầy, vị
thầy chỉ đường. Phật nói Ngài là người chỉ đường, chớ không phải
tuyệt vời hơn hết. Trong kinh thường dùng từ Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Chữ Vô thượng là không trên, Ngài là bậc giác ngộ không
ai trên, chớ có thể bằng. Nếu người nào giác ngộ như Ngài cũng sẽ
bằng Ngài.
Như vậy chúng ta tu Phật có quyền thành Phật, chớ không phải tu
Phật để làm tôi tớ của Phật. Có nhiều người nói nghe rất buồn: "Tôi
tu không ham gì hết, miễn được về Cực lạc làm tôi tớ của Phật là
mãn nguyện rồi." Chịu làm tôi tớ Phật, chớ không chịu làm Phật.
Chính chỗ này trong kinh Pháp Hoa mượn ví dụ chàng cùng tử để nói
chúng ta không dám nhận mình là con ông Trưởng giả, người thay thế
sự nghiệp của cha. Nghe kêu anh liền hoảng hốt chạy, sợ tới té xỉu.
Vì vậy sau khi Trưởng giả tìm cách dẫn về, cho hốt phân anh mới an
lòng. Người cha thương quá phải mặc áo rách, cầm đồ hốt phân tìm
cách đến gần, từ từ giải thích hướng dẫn cho anh quen.
Chúng ta cũng vậy, nghe nói thành Phật ngán quá. Vì đêm nào mình
cũng lạy Phật, bây giờ bằng người mình lạy thì xem như hỗn láo,
không dám. Sự thật Phật đã nói như vậy, chúng sanh tu được giác ngộ
viên mãn sẽ thành Phật, chớ giác ngộ chút đỉnh thì còn xa lắm.
Chữ Vô thượng là giác ngộ viên mãn không ai hơn. Nhưng nếu ai
giác ngộ viên mãn thì đều thành Phật như Ngài. Ðó là chỗ bình đẳng ở
quả vị Phật, bình đẳng trong nhân Phật. Chúng ta có Phật tánh,
Phật có Phật tánh, đức Phật tu đến quả vị Phật, chúng ta tu cũng có
thể đến quả vị Phật, nếu giác ngộ tròn đầy như Ngài. Ðó là từ Vô
thượng.
Một từ khác để chỉ cho Phật là "Vô thượng y vương", tức Vua thầy
thuốc không ai trên. Cũng không ai trên chớ không nói tối cao. Ai
biết thuốc trị lành tâm bệnh cho tất cả chúng sanh như Phật thì sẽ
bằng Ngài, còn chưa biết thì thua Ngài. Nhìn qua một số từ ngữ,
chúng ta thấy rõ ràng đứng trên Phật tánh, Phật và chúng sanh bình
đẳng như nhau. Ðó là nói bình đẳng trên Lý tánh.
Ðến bình đẳng trên nghiệp báu. Ðức Phật nhìn thấy lẽ thật và chỉ
dạy lẽ thật, chớ không đánh lừa hay mê mị người. Ðức Phật có ba
thân: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Báo thân là thân do phước báu
mà thành nên thân tướng tốt đẹp. Còn thân chúng ta do nghiệp báu
kết thành. Xưa ta đã làm khổ người khổ vật thì ngày nay thân phải
đền trả lại nghiệp báu trước. Như vậy chúng ta mới hiểu Phật thị
hiện ở thế gian, đã thành Phật nhưng vẫn đền trả những nghiệp báu
cũ trong các đời trước. Như nạn "kim thương mã mạch", tức bị cây
thương đâm ở chân và ba tháng an cư ăn lúa ngựa.
Tại sao thân Phật đầy đủ phước báu, đầy đủ công đức, vẫn chịu
trả quả báo? Ðức Phật dạy thân Ngài đến đời này sẽ chấm dứt, nên
còn bao nhiêu nghiệp thì trả hết. Chúng ta thấy Phật là bậc giác
ngộ viên mãn, đầy đủ công đức, mà vẫn trả những quả báu còn thừa,
chớ không phải không trả. Cho nên biết luật nhân quả không tha ai
hết, có nợ thì phải trả. Như ngài Mục-kiền-liên là vị đệ tử thần
thông số một của Phật, có thể bay đi trên hư không, hiện nhỏ thành
lớn, hiện lớn thành nhỏ, có thể độn thổ, độn thủy v.v. Thế mà
gần cuối đời, Ngài bị đám du đãng vây đánh. Bình thường dù cả trăm
người vây đánh, Ngài chỉ vận thần thông bay lên, chúng liền hoảng
chạy. Kỳ này Ngài dùng thần thông không được, nên phải chịu đánh
nhừ tử. Cuối cùng bọn chúng đi rồi, Ngài mới dùng thần thông về
đảnh lễ Phật lần chót cũng để từ giã Thế Tôn.
Bất luận thần thông thế nào, hễ nghiệp đến thì phải trả. Ngài
Mục-kiền-liên chứng được A-la-hán nên thân Ngài là thân chót, không
còn tái sanh nữa, cho nên những nợ cũ phải trả hết. Như vậy lý
nghiệp báu bình đẳng cho tất cả, không tha ai dù Phật hay các bậc
Thánh tăng cũng thế.
Trong kinh A-hàm kể có một thầy Tỳ-kheo đã chứng A-la-hán tức là
bậc Ứng cúng, trời người đều cúng dường. Thế mà Ngài đi khất thực
không ai cho miếng cơm, suốt mấy ngày chịu đói tới ngất xỉu. Các
thầy Tỳ-kheo khác thấy thương, mới đi xin cơm về cho. Hôm đó, một
thầy Tỳ-kheo xin được hai bát cơm về chia cho Ngài một bát, còn
mình một bát. Trong lúc đói run quá, Ngài vừa mới đưa tay cầm cái
bát liền rớt bể, cũng không ăn được, như vậy cho tới chết.
Ðức Phật nói quả báu của vị Tỳ-kheo đó, do trước kia ngăn trở sự
cúng dường của các thí chủ cho những vị Tăng khác nên phải trả như
vậy. Qua đó chúng ta thấy rõ Phật, A-la-hán đều phải trả nghiệp
báu bình đẳng như nhau.
Ðức Phật thường dạy, tất cả Phật tử cũng như những người không
theo đạo Phật, ai làm việc thiện thì hưởng quả lành, ai làm việc ác
thì bị quả dữ, bình đẳng như nhau. Chớ không thể nói tôi là con
Phật, tôi làm việc ác Phật tha mười phần còn năm. Không có chuyện
đó. Chúng ta mới thấy ý nghĩa nghiệp của đạo Phật rất công bằng,
rất bình đẳng, không thiên vị một ai. Từ Phật cho tới đệ tử Phật,
đến mọi loài chúng sanh đều thọ lãnh như nhau. Khi nghiệp đến, thần
thông cũng vô dụng. Nên biết nghiệp mạnh hơn thần thông. Vì vậy
Phật không chú trọng thần thông.
Do đó biết làm việc lành, tu điều lành còn hơn thần thông, vì
những nghiệp lành đó mới cứu chúng ta, còn thần thông chỉ đùa chơi
cho vui thôi chớ không cứu mình nổi. Trong kinh có kể, thời Phật
còn tại thế, một ngoại đạo chứng được ngũ thông, ông nói pháp rất
hay, trời Ðế Thích cũng xuống nghe. Một hôm nghe pháp xong trời Ðế
Thích ngồi khóc, ông lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao hôm nay nghe tôi nói pháp ông lại khóc?
Trời Ðế Thích thưa:
- Thưa Ngài, Ngài nói pháp rất hay nhưng con biết Ngài sắp mạng chung, con thương nên khóc.
Nghe xong, hoảng quá ông hỏi:
- Bây giờ làm sao cho khỏi chết?
Trời Ðế Thích thưa:
- Ngài muốn khỏi chết nên tìm đến đức Phật để cầu chỉ dạy.
Ông hỏi:
- Bây giờ Phật ở đâu?
- Phật đang ở tại tinh xá Trúc Lâm, nước Ma-kiệt-đà.
Ông liền dùng thần thông bay đi tìm Phật. Bay gần đến, ông nhìn
xuống đất thấy hai cây ngô đồng trổ hoa rất đẹp, ông dừng lại dùng
thần thông nhổ hai cây để trên hai bàn tay đem cúng dường Phật. Tới
trước Phật, ông xin cúng dường hai cây ngô đồng. Phật hỏi:
- Ông cúng dường cầu cái gì?
Ông trả lời:
- Con cầu Ngài dạy phương pháp tu khỏi chết.
Phật bảo:
- Buông.
Ông buông một cây ngô đồng xuống.
Phật lại bảo:
- Buông.
Ông buông tiếp cây ngô đồng còn lại. Như vậy hai tay trống hết rồi. Phật bảo:
- Buông.
Ông thưa:
- Con có hai tay, mỗi tay cầm một cây ngô đồng. Phật bảo buông
lần thứ nhất con buông một cây, bảo buông lần thứ hai con buông cây
nữa. Bây giờ Ngài bảo buông, con không biết buông cái gì?
Phật bảo:
- Ta không bảo ngươi buông cây ngô đồng. Buông thứ nhất là đừng
dính mắc với sáu trần. Buông thứ hai là đừng chấp sáu căn. Buông
thứ ba là buông hết tất cả những ý thức duyên theo sáu trần. Buông
được ba thứ đó thì ngươi khỏi chết.
Ngay đó ông liền đại ngộ, chứng A-la-hán được giải thoát sanh tử.
Như vậy giải thoát sanh tử do thần thông hay do tu? Rõ ràng là
do tu. Thần thông chỉ để lòe thiên hạ chơi thôi, chớ đâu thể cứu
mình khỏi chết, khỏi nghiệp. Nghiệp không thoát được, chết không
thoát được, tại sao lại ham thần thông? Người tu ngày nay, nhất là
giới Phật tử nghe ai biết quá khứ vị lai thì mò tới hỏi chuyện năm
tới năm kia gì gì đó. Thấy quí vị dễ tin quá, họ nói đại đời trước
cô ở đâu làm gì, nói cho vui tai thôi chớ có tới đâu, vậy mà tin
thôi là tin.
Phần nhiều người ta lại tin những thứ bâng quơ, không phải chánh
nghĩa, chánh đạo. Chánh đạo là biết mình hiện đang tạo nghiệp lành
hay nghiệp dữ, đang còn dính mắc hay buông xả được sáu trần v.v.
Người ta nói kiếp trước cô là tiên thì vui lắm, còn nói là bò là
heo thì xụ mặt liền. Nhờ thế họ mới gạt được mình, ai đến cũng căn
tiên cốt Phật hết nên móc túi thiên hạ dễ dàng. Ðó là chúng ta
không có chánh tín, chánh đạo nên bị gạt mà không hay.
Hồi xưa còn nhỏ, tôi có quen một anh coi tay coi tướng, được
nhiều người thích lắm. Tôi hỏi thuật coi tay coi tướng của anh hay ở
chỗ nào? Anh nói: Có gì đâu, nếu thấy người ấy hồi xưa là ông cả,
mà vợ mặt mét mét thì nói bà rất tốt, nhưng hình như ông nhà có bồ
bịch gì đó nên bà khổ đau. Bởi vì ông cả ông huyện thì lúc nào mà
chẳng nhiều bà. Nghe trúng quá nên khen nức nở. Kế tiếp cho thuốc,
nói thuốc này uống hay lắm nhưng còn có ba viên, bán cho bà thật là
không muốn bán. Nghe vậy, bà ta năn nỉ quá mới chịu bán với giá
rất đắt. Có gì đâu đó là thuốc bổ uống vô ăn ngon ngủ ngon nên khen
thuốc hay quá. Nhưng không ngờ nếu uống ít viên nữa cũng vậy
thôi, không có gì hay hết.
Mới thấy ở đời có những thuật lừa bịp rất tầm thường mà mình
không biết, cứ được vuốt một chút là vui mừng rồi nghe lời. Tâm
trạng của con người đa số là tâm trạng chịu vuốt ve, chịu khen,
chịu tán dóc, chớ không chịu nói lẽ thật. Ðó là điều mà Phật tử
chúng ta lâu nay dễ mắc kẹt. Trong khi Phật dạy rõ nghiệp là cái
đáng sợ nhất lại không sợ. Nghiệp từ đâu mà ra? Từ thân, miệng, ý
của mình. Nếu thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành thì nghiệp
lành. Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác thì nghiệp ác. Như vậy
tất cả nghiệp từ nơi thân miệng ý của chúng ta mà ra hết. Cho nên
tu là chuyển đổi nghiệp ác thành nghiệp lành.
Trong một gia đình, vợ chồng con cái, ai cũng biết tu thân không
dám làm ác, miệng không dám nói ác, ý không dám nghĩ ác thì gia
đình đó bình an, hạnh phúc. Nếu trong xã hội ai cũng tu như vậy thì
xã hội văn minh tốt đẹp. Ðó là kết quả của những người biết tu
theo chánh pháp, chánh đạo. Ðó là nói bình đẳng trên lý nghiệp báu.
Bây giờ nói đến đạo Phật tự do tuyệt đối. Ở đời ai không muốn tự
do. Nhưng tự do như thế nào là tự do tuyệt đối? Có hai thứ tự do,
tự do tương đối và tự do tuyệt đối. Thường con người đòi hỏi tự do
là tự do tương đối thôi, muốn làm được việc này việc kia không có
gì ngăn trở chướng ngại, đó là đòi hỏi tự do. Nhưng người đời đòi
hỏi tự do với người khác. Nếu trong sở thì đòi hỏi chủ sở phải có
thái độ cởi mở cho mình tự do. Nếu trong gia đình thì đòi hỏi cha
mẹ phải dễ dãi cho con cái tự do. Nhưng tất cả tự do bên ngoài đều
tương đối, không thể trọn vẹn được.
Chỉ có đòi hỏi tự do nơi mình mới là quan trọng. Tại sao? Vì tự
do bên ngoài chỉ có trong phạm vi giới hạn thôi. Ví dụ ở nước Việt
Nam lên xe cứ ngồi không cần nai nịt gì hết. Còn ở Mỹ lên xe ngồi
phải nai nịt đàng hoàng, nếu không thì sẽ bị phạt. Như vậy mới thấy
tự do tương đối thôi, tùy theo pháp luật của mỗi nơi. Nếu ở Việt
Nam không nai nịt là tự do, qua Mỹ nai nịt ta cự nự có được không?
Nên chỉ đòi được tự do tương đối chớ không có tự do tuyệt đối
Muốn tự do tuyệt đối, Phật dạy chúng ta phải nhìn lại mình, dành
quyền tự do nơi mình. Nơi mình phải nhìn cái gì? Trước hết đức
Phật chỉ hai con đường, đường thiện do tạo nghiệp lành, đường ác do
tạo nghiệp dữ. Chúng ta tự do chọn, chọn lành thì đi lên, chọn ác
thì đi xuống. Phật không có quyền bắt ta đi xuống hay đưa ta đi
lên. Như vậy đạo Phật nói con người tự do chọn lựa hai con đường,
lên là lành, xuống là dữ. Chúng ta ai cũng muốn đi lên, dại gì chọn
đường đi xuống. Nhưng nếu gặp việc tức giận quá thì lúc đó nhớ đi
lên hay đi xuống? Khi tâm trí tỉnh táo thì chọn đường đi lên, lúc
sân si mất bình tĩnh thì đi xuống. Chúng ta chọn đường đi lên tại
sao có lúc lại đi xuống, như vậy có tự do không? Mình là chủ mà bị
cái gì đó làm áp lực phải theo nó là mất tự do rồi.
Cho tới quí thầy, quí cô đều biết tham sân si là xấu, vậy mà bực
quá cũng đỏ mặt. Cho nên trong nhà Phật nói: "Tăng hận bất cách
túc" nghĩa là ông Tăng giận không quá một đêm. Nói vậy để Phật tử
thấy quí thầy giận không ngạc nhiên, nhưng nhớ là giận không được
quá một đêm. Người đời giận cả năm tháng mười tháng, có khi cả đời
giận không ngó mặt nhau. Phật dạy người đang tu giận không quá một
đêm, chớ chưa hoàn toàn thắng nó, nhưng mau quên, mau bỏ cũng là
tiến rồi.
Chúng ta muốn tự do thì những gì lôi cuốn, xúi giục đi xuống
chúng ta phải làm chủ nó. Làm chủ nó được là mình biết giữ tự do.
Mỗi khi vừa hơi nổi nóng một chút thì nói "Tao không đi đường này,
tao đi lên". Nói như vậy rồi bỏ đừng giận, đó là đã tự do. Còn nếu
nổi nóng lên la lối lung tung, một lát ăn năn sám hối. Sám hối như
vậy chưa chắc hết đâu, mắng chửi người ta đã đời rồi bây giờ sám
hối, ai bỏ liền cho. Nghiệp đã tạo thì phải chịu hậu quả tương ưng.
Vì vậy đã quyết tâm muốn đi lên thì chúng ta phải cố gắng tu,
dẹp bớt ba độc tham sân si. Dẹp được ba thứ đó thì có tự do, nhất
định đi theo con đường mình đã chọn. Ba thứ đó không dẹp có ngày nó
lôi chúng ta đi xuống. Tu là chọn con đường lành, an vui hạnh
phúc, chớ không phải tu để cầu xin. Phật tử tới lễ Phật thắp ba cây
hương, cúng dĩa quả, quì xuống khấn lâm râm: Phật gia hộ cho gia
đình con bình an, cho con của con thi đậu, cho con làm ăn phát tài.
Xin như vậy có lỗi gì không? Có lỗi cúng ít mà xin nhiều. Tham với
người đời Phật còn quở, bây giờ tham với Phật nữa, thật không biết
nói sao.
Nhiều khi Phật tử làm những điều trái với đạo lý mà quí thầy từ
bi quá không dám rầy. Vì rầy sợ buồn không đi chùa, nên cứ để tha
hồ cầu xin. Cho nên trên đường tu chúng ta phải biết thật kỹ, thấy
thật rõ, những gì Phật đã dạy chúng ta làm, đừng làm ngược lại.
Phật bảo tu là chừa bỏ tam độc tham sân si, chúng ta tới chùa thắp
hương khấn nguyện Phật từ bi gia hộ cho Tam Bảo thường còn ở thế
gian, cho chúng sanh có chỗ nương tựa tu hành mau giác ngộ. Nguyện
như thế mới thật là một Phật tử chân chánh, ngược lại thì chưa phải
là Phật tử.
Bởi vì khi phát một lời nguyện là cả một nội tâm tốt đẹp, chớ
không phải chuyện thường. Cho nên lời nguyện đó mang đầy tính chất
đạo lý, đó là phước báu hiền lành. Nếu còn cầu xin cho mình là còn
tham lam, không biết sẽ được cái gì? Ðạo Phật rất thực tế mà nhiều
khi chúng ta đi quá xa nên trở thành thiếu thực tế, biến đạo Phật
thành huyền bí, không có lẽ thật.
Trong ba nghiệp thân miệng ý thì ý quan trọng nhất. Ý nghĩ lành
miệng mới nói lành, thân mới làm lành. Ý nghĩ dữ thì miệng nói dữ
thân làm dữ. Nên khi tu phải cố gắng dẹp bỏ những loạn tưởng từ
trong ý. Chư Phật thường dạy:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là:
Không làm tất cả các điều ác,
Vâng làm tất cả các điều lành,
Giữ tâm ý mình cho thanh tịnh,
Ðây là lời dạy của chư Phật.
Vì vậy người tu phải nhìn lại nội tâm mình, đừng để tham sân si
làm chủ, dẫn mình đi trong đường dữ. Nhưng lâu nay tất cả chúng ta
có hai mê lầm rất lớn. Mê lầm thứ nhất là thấy thân này là thật. Mê
lầm thứ hai là cho cái suy nghĩ phải quấy, hơn thua, tốt xấu. là
tâm mình.
Nói theo kinh sách thì thân không thật, song với cảm tính tự
nhiên thấy thân mình thật. Cho nên vô chùa nghe kinh nói thân không
thật, nhưng bước ra khỏi chùa ai động tới thì biết. Như vậy chúng
ta hiểu một đàng mà sống một ngả. Thế nên phải tu để quán sát kỹ
càng thân này không thật. Biết nó không thật là trên đường tu chúng
ta nhẹ được năm mươi phần trăm rồi.
Hạnh phúc của cuộc đời là, nơi thân này mượn được tốt đẹp, trả
ra suôn sẻ, thế thôi. Nếu trục trặc là hết hạnh phúc. Nhìn lại cuộc
sống quá giả mà lâu nay chúng ta cứ tưởng nó thật. Nếu dùng con
mắt trí tuệ nhìn vào thấy rõ thân này vay mượn, không thật thì còn
ngạo mạn với ai nữa. Ðồ vay mượn khen chê là việc thường, có gì
phải buồn giận. Thấy đúng như vậy thì đạo đức sẽ đến với chúng ta.
Còn tưởng nó thật nên động tới nổi sân, mất cái gì nổi tức
thành ra khổ.
Thấy đúng như thật là người trí hay là người mê? Mê thì giả
tưởng thật, trí thì giả biết giả. Chỉ đổi một cái nhìn là trí tuệ,
lầm một chút thành si mê. Kim Cang Bát-nhã là chỉ cho trí tuệ cứng
chắc không gì phá được, trí tuệ đó thấy tất cả pháp hư giả không
thật. Biết nó hư giả, không thật là chúng ta thấy đúng như thật, là
có trí tuệ. Như vậy trí tuệ không phải khó tìm, chỉ chuyển một cái
nhìn là xong. Ðó là nói về thân.
Ðến tâm, chúng ta thường cho cái nghĩ suy phải quấy, tốt xấu,
hơn thua, khôn dại. là tâm mình. Nếu thế khi buồn nói tôi buồn, khi
giận nói tôi giận v.v. Vậy tôi từ khi cha mẹ sanh cho tới ngày
nhắm mắt là một hay là nhiều? Không lẽ tôi là trăm thứ. Tôi không
phải là trăm thứ mà bây giờ nhận cả trăm thứ là tôi có được không?
Như mình có món đồ quí nhờ người trong nhà cất giùm đâu đó. Khi cần
lấy ra, người đó tìm không được nói lạc rồi. Lúc đó mình nổi giận
la lối om sòm, nhưng bất thần họ tìm được ta liền đổi giận làm vui.
Mới giận đó rồi cười đó, nếu giận là thật thì nó phải còn hoài,
hoặc vui là thật thì nó phải còn hoài. Nhưng mới giận rồi vui,
đổi thay không bao lâu.
Cái không thật mà nhận là mình thì nghĩ tốt cũng là mình, nghĩ
xấu cũng là mình. Vì vậy cái nào nhiều nó sẽ dẫn mình đi theo con
đường ấy. Nếu nghĩ tốt nhiều tạo nghiệp lành thì nó dẫn mình đi lên
các cõi lành. Nghĩ xấu nhiều tạo nghiệp dữ thì nó dẫn mình đi
xuống đường dữ. Muốn không còn lăn lộn trong luân hồi nữa thì phải
dứt nghĩ, dứt những lăng xăng đó thì hết luân hồi sanh tử.
Mục đích của đạo Phật dạy chúng ta tu là để giải thoát sanh tử,
cứu kính hoàn toàn tự do. Muốn giải thoát sanh tử chúng ta phải dẹp
sạch tâm lăng xăng, lộn xộn nào buồn, thương, giận, ghét v.v. lâu
nay làm rối mình. Chúng lặng hết rồi thì ta sẽ giải thoát khổ đau.
Ðó là cái gốc của sự tu. Tâm đó không thật, nếu vừa dấy ta chịu khó
nhìn thì nó mất.
Cho nên trong kinh thường ví dụ, như đêm rằm ta nhìn thấy mặt
trăng dưới đáy hồ tròn đẹp. Có người nói dưới đáy hồ có mặt trăng,
người khác nói không có mặt trăng. Vậy ai nói đúng? Nói có là thừa
nhận dưới đáy hồ có mặt trăng thật, vậy thử vớt lên xem. Vớt lên
không được thì nói có thật không đúng. Nếu nói không, sao mắt thấy
rõ ràng nó dưới đáy hồ nên nói không cũng không đúng. Phật bảo
thấy có thấy không là thấy hai bên, đó là biên kiến, không đúng
chân lý.
Bây giờ phải thấy làm sao? Người thấy đúng lẽ thật sẽ nói mặt
trăng dưới đáy hồ có nhưng chỉ là bóng không thật. Nói như thế mới
không mắc kẹt hai bên, đó là lý trung đạo. Do duyên hội tụ chúng ta
thấy có mặt trăng dưới đáy hồ, chớ sự thật mặt trăng không có thật
mà cũng không phải không ngơ. Nói có thật, nói không ngơ đều là
sai lầm. Người thấy được như vậy gọi là người trí tuệ. Ðối với tâm
nghĩ tốt, nghĩ xấu không thật mà mình theo nó là si mê. Biết nó
là tâm hư dối không thật, chúng ta buông xả thì nó không ràng
buộc, chi phối mình nữa, đó là chúng ta được tự do.
Người tu Thiền khi niệm khởi đừng chạy theo, buông xả thì sẽ
được yên định. Người tu Tịnh độ chú tâm niệm Phật, nên vọng tưởng
lặng đi, cuối cùng đến chỗ nhất tâm. Tóm lại muốn giải thoát sanh
tử chúng ta phải dừng phải lặng tâm vọng tưởng của mình. Lâu nay
chúng ta chấp nó là mình nên bị ràng buộc lôi kéo. Giờ đây chúng ta
làm chủ, không để nó lôi kéo nữa. Ðó là tự do tuyệt đối của con
người.
Chấp tâm lăng xăng hư dối là thật sẽ đưa chúng ta tới những cuộc
tranh đua, giết chóc làm đau khổ cho nhau. Giờ mình biết tâm đó
không thật, ta nghĩ thế này, người kia nghĩ thế khác, đó là quyền
của mỗi người, không có chi phải buồn giận. Trong kinh A-hàm Phật
dạy một câu hết sức chí lý: Người biết tôn trọng chân lý là người
khi nghĩ thế nào, thì nói "đây là cái nghĩ của tôi". Không nói cái
nghĩ của tôi là đúng, đó là biết tôn trọng chân lý. Nếu cho rằng
cái nghĩ của tôi là đúng thì cái nghĩ của người khác sai. Ai cũng
giữ phần đúng về mình thì đi tới gây nhau, đánh nhau. Bây giờ chỉ
nói "cái nghĩ của tôi thế này", không thêm đúng sai gì cả, thì yên.
Ðó mới thật là tự do, mỗi người có quyền nghĩ tự do nhưng không
bắt buộc người khác giống mình.
Nếu là chân lý chúng ta nói đúng được, nhưng tất cả đều không
thật mà khẳng định đây đúng kia sai là hoàn toàn mê lầm. Mê lầm mà
không biết mình mê lầm thì gọi là gì cho xứng? Ðại mê lầm, tức mê
lầm không ai hơn. Chúng ta hiểu đạo biết tu, phải thoát ly những mê
lầm đó. Sống tôn trọng tự do về ý niệm của mỗi người, không đòi
hỏi ai cũng như mình. Không đòi hỏi bên ngoài mà đòi hỏi ở mình,
đòi hỏi ở nội tâm mình.
Như vậy tự do trong đạo Phật là tự do xoay lại mình, làm chủ
mình chớ không phải tự do đòi hỏi ở kẻ khác. Biết xoay lại biết làm
chủ mình đó mới là tự do tột cùng, đó mới là người hùng, người
giác ngộ. Cho nên trong kinh Pháp Cú, Phật dạy "Thắng một vạn quân
không bằng thắng mình. Thắng mình là chiến công oanh liệt nhất".
Chúng ta đòi hỏi tự do, đòi hỏi bình đẳng thì hãy xoay lại nội
tâm mình mà đòi, đó là người khéo tu. Nếu cứ trông ra ngoài đòi hỏi
thì suốt kiếp cũng không thỏa mãn được. Người mê thì đòi bên
ngoài, người tỉnh thì đòi nơi mình. Khi nào chúng ta không còn bị
nghiệp trói buộc, không còn bị tâm mê lầm lôi cuốn nữa, lúc đó hoàn
toàn tự do. Ðây là hình ảnh giải thoát trong đạo Phật. Vì vậy đạo
Phật nói tự do tuyệt đối là giải thoát, không còn bị trói buộc bởi
mê lầm về thân, mê lầm về tâm. Ðó mới là gốc, là căn bản của người
tu theo đạo Phật.
Tu như vậy mới gọi là chân tu, thật tu. Còn hiểu sai hoặc hiểu
mà không hành, đó là tu ngoài miệng chớ chưa thật tu. Chúc tất cả
quí vị đều được tự do tuyệt đối như đức Phật đã dạy.
Nguồn: Thiền Tông Việt Nam