Là thi sĩ “tôi làm thơ là rung một làn
ánh sáng” là người sống và cảm xúc trước cái đẹp.
“Ai mua trăng
tôi bán trăng cho,
Chẳng
bán tình duyên ước hẹn hò” (Hàn mặc Tử )
Làm thơ là cửa ngõ vào tâm linh. Cũng
ánh trăng ấy, sông xa ấy, làn sương ấy, mùa thu ấy, mỗi nhà thơ cảm nhận một cách
khác. Được gặp và quen ông qua lời giới thiệu của một người bạn, cầm trên tay tập
thơ của ông, mỗi ngày mỗi dày lên, tôi đọc liên tiếp trong gần hai tháng. Có tất
cả mười tập, không thể đọc hết một lúc, phải đọc nhiều lần mỗi ngày đọc một ít
bài. Và chỉ đọc về đêm vì chỉ có ban đêm tôi mới có thể lắng lòng mình nghe, cảm
và rung động trước những vần thơ lạ lùng như một dòng suối chảy róc rách không
ngừng; Lạ lùng vì chất tự nhiên, trong trẻo mà hàm súc vô cùng của ngôn ngữ thơ
đặc biệt. Một loại hình ngôn ngữ giản dị, có khi còn dí dỏm nữa; Vui có, buồn
có, đọc rồi thấy tâm hồn mình đổi khác, hết ưu tư buồn phiền trước bao nhiêu phản
trắc xô bồ giữa cuộc đời hiện tại. Tuy thế thơ ông nhiều khi man mác một nỗi buồn,
đọc những vần thơ sau:
Nắng
lên cho ấm hương sầu
Gợi
lên trầm bỗng tiếng cầu kinh xưa
Tình
quê biết nói sao vừa
Đau
thương máu lệ hay chưa hỡi người?
(Tiếng lòng nức nở quê
hương)
Xuân đến làm chi thấy ngậm ngùi
Nụ cười đã chết hẳn trên môi
Ngày
vui đã mất từ lâu lắm
Từ
thuở còn thơ khóc chào đời.
( Thầm lặng)
Nỗi
buồn trong thơ Mặc Giang là nỗi buồn nhân thế. Điều này thật hệ trọng. Lúc nào
ông cũng làm thơ được, viết thơ được, ông sống với thơ hơn là “ru” với nó. Chừng
như qua ngôn ngữ thơ, nhà thơ không ru ai ngủ yên, trái lại - ông thức tỉnh kẻ
khác, xoa dịu những buồn đau, làm lành vết thương lòng. Làm trẻ lại kẻ tật nguyền,
an ủi cô nhi… Trái tim đa cảm của ông là mặt kia của lí trí, hay nói khác, lí
trí sáng suốt soi đường cho trái tim đau. Lúc nào ông cũng rung động được, cảm
xúc được trước khía cạnh tốt đẹp của đời sống; Sống, hiểu như những xẻ chia và
hiến dâng. Sống cùng với những đau thương mất mát của con người, mà mỗi ngày mỗi
khác. Đó là điều khiến ta thấy ông khác hẳn những nhà thơ khác, kể từ xưa đến
nay. Mỗi ngày một niềm vui khác, một niềm cảm thông khác, mỗi rung động mới.
Tuy viết nhiều - có thể nói chưa ai liên tục viết trong một thời gian ngắn với
một kỉ lục như thế - thơ ông luôn luôn mới, lạ và hay.
Thơ
là cõi riêng. Nơi Tô Đông Pha tìm thấy, tận những phương trời viễn mộng, niềm
an ủi thầm kín với những con lục y yêu phượng. Và Hàn mặc Tử:
“
Thơ tôi bay đến một trời chưa thấu
Hòn
tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên
triều thiêng ngời chói vạn hào quang?
( Xuân như ý)
Huy
Cận viết:
“ Ai
chết đó nhạc sầu chi lắm thế
Trời
đìu hiu chiều rét mướt ngoài đường.”
Và
Xuân Diệu:
“
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ.” (1)
Cũng
chỉ là nỗi riêng. Nỗi buồn niềm vui của Mặc Giang nằm trong sự sẻ chia. Ông
không chỉ thuần túy rung động trước cái đẹp của buổi chiều tà và bình minh. Ông
còn cảm xúc trước những bất công của con người đang gánh chịu. Đó là một cõi vô
thinh phong phú hình ảnh, giàu màu sắc và nhạc điệu. Nhà thơ không sử dụng từ
hoa mỹ, không ngoa ngôn mà lại nói rất nhiều. Phải chăng chính vì đời là cõi tạm
mà cõi thơ lại chính là chỗ “dư dục vô ngôn” nên thơ Mặc Giang khi nào cũng rõ
ràng thứ ngôn ngữ nói, khi nào cũng hàm ngụ một ẩn ngữ? Có phải vì thế mà người
thi sĩ phải ra đi?
Nỗi
cô đơn ngàn năm của Rikle, niềm hi vọng chứa chan trong thơ Tagore, niềm vui nhẹ
nhàng trước lá cỏ trong thơ William Blake và lục bát hồn nhiên trong thơ Huy Cận:
“ Nằm
im dưới gốc cây tơ
Nhìn
xuân trải lụa muôn tờ lá non.”
Cả tính
u uẩn trong thơ Kalil Gibran, tất cả tính cách trên đây thỉnh thoảng ta vẫn thấy
trong thơ ông. Mặc giang là một người khác đời ư, không phải vậy. Ông là một
trường hợp khác. Khác ngay trong ngôn ngữ thơ.
Cuộc
lên đường của ông cũng khác. Ông không hề thiếu thơ. Ông làm thơ trên đường đi.
Đó là một cuộc lữ hành không mệt mỏi. Những bài thơ được ông viết rất nhanh, tuồng
như thơ là hơi thở, hơi thở làm nên sự sống, nguồn thơ bất tận là máu thịt của
Mặc Giang. Ông viết thơ trên máy bay, trong những chuyến đi về thăm quê nhà hay
đến miền đất khác cũng vậy. Cảm xúc chưa kịp hình thành câu chữ, ý thơ đã tuôn
trào. Và thế là cõi thơ vẫn là một tính cách riêng dù thơ ông – không phải chưa
hề riêng tư cho bản thân mình mà ngay cả điều ấy – cái ngã ấy - cũng hòa đồng
vào đại ngã.
“
Tàu ơi, còn nhớ sân ga!
Xe
ơi, còn nhớ bến xa bến gần!
Thuyền
đâu rẽ nước chia phân
Máy
bay đâu xé nỗi vầng không gian!”
( Từng cuộc
hành trình)
Nghệ
sĩ là con tằm nhả tơ. Dù thế nhà thơ không nói đến nỗi cô đơn của mình bao giờ.
Cảm xúc dạt dào lấn át tất cả, cảm xúc lớn hơn nỗi cô đơn. Thơ, ngay cả trong
cuộc lữ, không tách rời người nghệ sĩ với vũ trụ vạn vật và con người. Trên đường
về thăm quê, nỗi u hoài muôn thuở của người con xa xứ, niềm ưu tư trước cảnh
còn mất, được thua; Bao nhiêu tấn trò đời diễn ra, nỗi buồn nhân thế trong thơ
ông thật mênh mang với ý thơ hàm súc. Có điều ông không chìm đắm. Mặc Giang là
người thơ của nhân loại: ông chan hòa với cỏ, cây, hoa, lá, dã thú, người, vũ
trụ vạn vật. Và nhất là với quê hương. Có khoảng 135 bài, trong đó, chủ đề quê
hương chiếm hết 75 bài (trong số 1000 bài).
Quê
hương, ngày về là nỗi niềm hoài nhớ nhức nhối trong thơ Mặc Giang. Tại sao người
thi sĩ phải ra đi? Gần như là định mệnh: nỗi cô đơn ngàn năm, niềm đau nhân thế,
nối sầu tiền kiếp bàng bạc khắp cõi thơ Huy Cận và Rikle. Làm sao thản nhiên được
trước cuộc bể dâu? Sau những bầm dập mất mát, cái chết gần kề sự sống, hạnh
phúc và khổ đau hòa làm một, cả hai bay bổng trong cuộc lữ chuyển hóa thành
thơ. Thơ ông nói về mình không nhiều, bài thơ nào cũng mang trong tâm tưởng
lòng hoài nhớ quê hương.
Cả
dĩ vãng, biết đâu làm dấu mốc
Đã
qua rồi, xin trả lại thời gian
Có
nhớ chăng như những tiếng âm vang
Đong
cay đắng, đổ đầy trang kỉ niệm
Có
thanh trong, mới thương trời màu tím
Có
sơ cơ, mới quý những chân tình
Có
hàn vi, mới biết kẻ thương mình
Chấm
điểm son trên bức tranh phù thế
Đâu
nói chi, và chẳng cần kể lể
Tôi
giữ gìn một cõi của riêng tôi
Đời
có ra sao rồi cũng được thôi
Cho
nghĩa thú một đời tôi, ý vị.
( Nhớ những ngày qua)
Trong
cuộc hành trình tìm về chính mình ông tìm thấy bản thể tự thân và giọng thơ ông
tự nhiên như một thứ ngôn ngữ nói không kiểu cách màu mè. Con người trong thơ
ông nổi trôi trong cõi tạm bi thê mà không chìm đắm, từ đó phát sinh niềm hi vọng
mới, một sức sống mới, ngày mới, vì đêm thì sẽ tàn. Chưa bao giờ đọc thấy sự
tuyệt vọng ngay trong những vần thơ buồn nhất:
Sá
gì hai chữ biệt li
Thời
gian như thể bờ mi khép hờ
Mở
ra còn đẹp như mơ
Khép
vào lưu lại vần thơ muôn đời.
( Quê hương còn đó đợi chờ)
Có
thể nói tình tự quê hương bàng bạc trong suốt mười tập thơ:
Không
quê sầu hận ngập tràn
Làm
thân lưu lạc lòng man mác buồn
Dầu vậy, chỉ buồn nhẹ nhàng thôi mà
thấu tâm can, nếu ta đọc thơ ông thật kĩ và thật chậm. Từng câu chữ thấm vào
tim vào máu thịt ta. Khóc than ư? Ông ra đi để trở về và trở về xây đắp niềm hi
vọng rồi ra đi, chừng như trên mỗi chặng đường đều có thơ vì thơ chính là máu
thịt ông và hơi thở. Thơ là cõi riêng tôi, cho dù thế nào chăng nữa.
Ai
gieo rắc lầm than!
Tôi
vá mía đắp đường
Ai
gieo rắc tham tàn!
Tôi
gìn giữ yêu thương
Quê
hương trong thơ Mặc Giang như một nỗi niềm khôn nguôi, quê hương là máu thịt và
ông có rất nhiều bài hay về chủ đề đó.
Không
những tự hào về quê hương mà cả ông cũng còn một lời xác quyết về mình:
Tôi
là một người Việt Nam
Không
tiếp tay xương máu hận thù
Ông
khẳng định điều đó khi xẻ chia với đồng bào ruột thịt, bày tỏ tình thương cảm đến
với cuộc sống của mọi người, kể cả người nghèo khổ lầm than nhất. ông thông cảm
với người công nhân, thợ nề, người khuyết tật…trẻ cô nhi…Quê hương không chỉ là
bờ tre bến nước mà còn có đồng bào ruột thịt. Tình yêu nước thương nòi thể hiện
qua ba miền Trung, Nam, Bắc. Quê hương Việt Nam anh hùng trải
qua dòng lịch sử giữ nước và dựng nước được làm sống lại trong thơ Mặc Giang.
Trái tim của nhà thơ thật rộng lớn. Ông nói với cha, mẹ, với người em thơ mới gặp
bên đường, với doanh nhân, ông viết cho thế hệ mai sau, cho bản thân mình và
cho sự cảm thông. Vừa có bão Chanchu đã có ngay bài thơ kêu gọi cứu trợ. Vừa
nghe tin động đất đã có ngay bài thơ xẻ chia kêu gọi tình người. Hồn thơ lai
láng thế mà tình người thì thâm sâu. Lạ thay ngôn ngữ nói – viết thành thơ, một
loại hình ngôn ngữ tuôn trào như thác chở theo bao nhiêu tâm ý. Cũng tâm tình
hiến dâng, cũng nỗi đau thầm lặng, cũng tấm lòng rộng mở mà trái tim mỗi người
mỗi khác. Mặc Giang là một người thơ khác. Thơ ông nói đến tất cả chúng sanh, từ
lá cây, ngọn cỏ cho đến ngọn rau. Từ con chim bé nhỏ hiền lành đến loài dã thú.
Hiện hữu rõ nét nhất trong những bài thơ mang nặng tình yêu quê hương đất nước
là tấm lòng thủy chung nhân hậu. Tấm lòng nhân hậu ấy trải rộng khắp trời quê,
đến các loài cây cỏ chim muông. Chất lượng thơ bao dong cả thiên nhiên, muôn vật
và tình người. Ông viết trên chuyến tàu tốc hành, trước giờ máy bay cất cánh.
Ông viết:
Tôi
đi vô thỉ vô chung
Thỉ
chung đứng lại, đợi cùng tôi đi!!!
Không
kể nhiều bài phổ nhạc, thật ra trong thơ đã giàu nhạc tính rồi. Nỗi buồn nhân
thế trong thơ Mặc Giang rõ nét và sâu.
Ta
hãy đọc các câu sau trong “Dệt mộng mười đi”
Ai
đi thơ thẩn dưới trăng
Ngẩn
ngơ cho ánh trăng vàng lung linh
Ai
ngồi ủ dột đầu ghềnh
Trơ
vơ cho đá chênh vênh tháng ngày
Ai
lùa gió nhẹ heo may
Phất
phơ cho gió lung lay bụi trần
Ai lồng
cho áng phù vân
Lửng
lơ trôi nổi xa gần trời mây
Ai ngiêng nắng đổ về tây
Cho chim Hồng lạc buồn bay cuối trời
Ai
làm lở lói bờ đê
Cho
sông hỏi nước não nề nước sông
Ai
làm trơ trọi ruộng đồng
Cho
lúa hỏi mạ trổ bông mấy mùa
Đếm
trong vụn vỡ được thua
Cái
quay búng sẵn, gió lùa đêm đông.
Và nỗi
cô đơn khi mùa xuân về thiếu người tâm sự, ông trút vào thơ:
Đất
mới xuân sang rộn rã hời
Âm
thầm giọt lệ cố hương ơi!
Nghẹn
ngào lữ khách buồn không nói
Biết
nói cùng ai đất nước tôi?
(Tôi đâu có nói tôi làm thơ)
Phải,
ông không làm thơ, ông chỉ nói thơ. Thơ là ngôn từ đặc biệt của Mặc Giang, của
riêng Mặc Giang. Ông hòa mình với chiều tà, lúc bình minh, ông hòa mình với những
khổ đau của đồng loại. Nhưng thơ Mặc Giang không thuần túy trong một không gian
chật hẹp. Thơ ông bay bổng đến mọi miền. Ông về thăm quê cũ, rồi lại lên đường
nơi xứ lạ quê người.
Tại
sao người thi sĩ phải ra đi? Mặc Giang là người của cuộc lữ, ý thơ đến với trại
cùi, người mù, kẻ điếc, người bán hàng rong, kẻ ăn mày. Ai khổ thì có thơ ông
và tự thể ông hiện hữu cùng khắp. Nơi nào có đói khát, có thiếu thốn, có mùa
đông giá lạnh, có mùa hè nóng nực, ở đó có ông và thơ. Thơ ông đến với đồng loại,
sau trái tim đau. Phải, tôi nhấn mạnh. Sau trái tim đau. Có khi ta có cảm giác
đau buốt, cảm nhận một khía cạnh khuất bóng của tâm hồn thi sĩ. Nó là trái tim
đau lúc hoài nhớ quê hương, lúc viết những tứ thơ lạ lùng chỉ để diễn tả một ý,
nhiều ý của mình về quê hương dân tộc. Tô Đông Pha vui với con Lục y Yêu phượng,
một giống chim lạ nơi chốn lưu đày, còn ông có Thơ. Thơ và chốn riêng mình.
Tôi
không nghĩ ông bước ra từ nấm mộ mặc dù qua thơ ta biết ông đã mấy lần thoát hiểm. Có thể hồn thơ đẩy ông đi một
bước dài ngàn dặm chăng? Dưới bóng dáng xưa, ra đi và trở về nào có khác gì?
Cho nên có khi thơ ông đọc lên rất giản dị tự nhiên và hóm hỉnh nữa. Có khi lại
hồn nhiên, cái hồn nhiên trước đất trời với bốn mùa giao cảm. Người viết thơ hồn
nhiên như lá cỏ, tự nhiên như mùa xuân, phải chăng bây giờ niềm đau cũ đã xóa sạch
chỉ còn hồn thơ lai láng hiện diện. Thơ ông hiện diện cho chị, cho anh, cho mẹ,
cho cha, cho mọi người. Và cho tôi. Nói thế không có nghĩa thơ Mặc Giang thiếu
chất trữ tình, trái lại là đằng khác, có điều, cái tình ấy là tình thương yêu
và lòng từ bi của đức Từ phụ truyền lại cho ông. Cho nên đọc thơ ông tâm hồn
người cảm thấy
được nâng đỡ lên nhiều.
Thơ
đẩy màn đêm,
Xua
đi bóng tối
Thơ
kéo ngày lên,
Đưa
ánh sáng về.
Tôi
viết thơ để lại cho đời
Tôi
viết thơ trang trải nơi nơi
Dòng
thơ lai láng ấy được viết rõ trong các bài: “Tôi gởi thơ tôi, Tôi gởi bài thơ
thứ nhất…thứ ba…thứ sáu.”
Thơ
tôi gởi đến chị hàng rong
Chị
múc liền tay khách đẹp lòng
Kiếm
chác đôi đồng lương cuộn đáy
Sợi
thơ khô cạn chị còn đong
Tấm
lòng nhân ái ấy rải cùng khắp. Thật là một tâm hồn lạ lùng. Ý thơ không ngừng
như nước chảy nhất là ở thể điệu thơ lục bát, một thành công khác của ông.
Giữa
một cõi đời ham danh vọng phồn hoa, giữa một xã hội loạn lạc như bây giờ, thơ Mặc
Giang là liều thuốc an ủi xoa dịu những ai chán chường nhân thế, khích lệ em
thơ, người già. Thơ ông viết gởi đến ruộng đồng, trên đồi, dưới đầm sâu, khắp
trùng dương, khắp núi đồi, miền quê, thị thành, gởi quê hương, nước non, em
thơ, học sinh, thiếu niên, mái trường, giới sinh viên, công nhân viên…và tất
nhiên…đến người bình dân.
Cơ
cùng ai bán mốc meo
Sơn
khê ai bán quán đèo hoang vu
Còn
tôi xin bán cái ngu
Bán
luôn cái dốt mặc dù chưa mua
Bán luôn những cái hơn thua
Chỉ xin giữ lại quê mùa mà chơi
Có
ai viết như ông đã viết không?
Lời
thơ không khoa trương, nhưng ý thơ và tứ thơ liên miên không dứt.
Thơ
Mặc Giang còn gởi chị hàng rong, khách tha phương, gởi cung trăng, gởi ngày
mai, hôm nay…Gởi thơ chứ không bán. Ông lạc quan và hồn nhiên.
Ý
thơ thấm nước chìm lâu lắm
Tôi
vớt lên bờ đợi nắng hong
Con
nước dung dằng kéo ý thơ
Sợi
dây cột chặt quấn ngang bờ
Ê
mình con nước băng đi mất
Vãi
rớt thơ tôi cách mấy bờ
Để rồi
sau đó. Nhưng tôi không bán thơ đâu
Tôi
chẳng có gì, bán cái không
Đã
không, nên chẳng có đôi đồng
Không
ai mua hết, nhìn còn rộng
Đem
chất hoài, nhưng vẫn trống không
Nhưng
tôi không có bán thơ đâu.
Xuân
Diệu làm thơ là:” Rung một làn ánh sáng”
Tagore:”
Vào vườn tôi chơi đi em”
Ông
không mời ai vào vườn thơ, ông đến thăm họ, em bé, người già, không bằng đôi
chân của mình mà chỉ với trái tim, trái tim nhân ái thể hiện bằng thơ. Những tứ
thơ rất lạ:
Thơ
tôi trôi nổi trên sông
Tôi
xin vớt lại chờ hong nắng chiều.
Trường
hợp của Mặc Giang, qua thi ca, không giống như bất cứ người làm thơ thông thường
khác, là sự hòa điệu tuyệt vời giữa thân và tâm, giữa lí trí và tình cảm. Là vượt
lên tất cả mọi giới hạn tầm thường trong cuộc sống. Đối với nhà thơ này, hình
như không còn có giải phân cách giữa đôi bờ: thiện và ác, đẹp và xấu, thương và
hận. Tình thơ vượt trên những cái đó. Cho nên:
Thơ
tôi một gánh thả trôi sông
Bèo
giạt lan xa, nổi giữa giòng
Sóng
gợn ướt mình, lăn sóng nước
Dòng
thơ tuôn chảy khắp mênh mông
( Thơ tôi)
Có lẽ
với niềm hoan lạc ấy, Mặc Giang suốt đời có mặt cho đời, xoa dịu mọi nỗi khổ
đau của người đời bằng con đường thi ca chăng?
Tôi
viết cho ai cho mọi người
Đau
buồn buông bỏ, tạo xinh tươi
Hoang
tàn lấp lại xây cao đẹp
Thân
thiện hòa vang, nở nụ cười
Cuối
cùng, sau bao nhiêu trăn trở, niềm u uẩn của người lưu lạc, cùng với ánh sáng của
cõi riêng, đã soi sáng và tạo nên một giọng thơ bất hủ, khi người viết không hề”
cân, đong, đo, đếm” không hề có giải phân cách giữa bờ này với cõi kia.
Huế,
ngày 29/8/2008
Hương Tâm