Mời bạn đọc thưởng lãm:
Cáp Lỵ Quán Âm: Vua
Đường Văn Tông thích ăn thịt con hàu, một ngày nọ vua bắt
được một con sò lớn, vua dùng dao mổ hoài mà không mở được vỏ
sò, ông mới đốt hương cầu nguyện, con sò hóa thành Quán Âm Đại
Sĩ. Nhà Vua triệu vị thiền sư đến nói: người đáng dùng thân đặng
được độ, thì hiện thân này mà nói pháp. Hiện thân Đại Sĩ là
việc hy hữu không tin hay sao. Nhà vua rất vui liền ban
chiếu chùa chiền trong khắp thiên hạ tạo tượng Đại Sĩ để tôn
thờ. Đây là sự tích của Cáp Lỵ Quán Âm.
Thí Dược Quán Âm: ngoài
việc trị bệnh khổ của chúng sanh về thân và tâm, Quán Thế
Âm Bồ tát còn ban bố cho chúng sanh lương dược. Bài kệ trong
phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn
chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn
hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ.
Lang Kiến Quán Âm: còn
gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có
thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên
thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ
cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi nhìn
dòng thác, nhưng tâm tư Ngài như tinh thần của dòng nước.
Đức Vương Quán Âm:
trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “người đáng dùng thân Phạm
Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó
nói pháp”. Phạm Vương là chủ cõi trời sắc giới, công đức rất
lớn, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng thông thường trong
nhân gian là đầu đội bảo quan, ngồi kết già, tay phải cầm nhánh
lá, tay trái để trên đầu gối.
Nhất Diệp Quán Âm: nếu
bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ
tát, liền được đến chỗ cạn. Có thể thấy hình tượng Quán Thế Âm
Bồ tát hiện trên nước. Ngài ngồi trên hoa sen nổi trên mặt nước,
ngắm nhìn nước tâm suy nghĩ sâu sắc đến những nơi tối tăm không
ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có
các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải,
nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát
vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết
lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng
đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải
hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Nhất Như Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi
điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn chép: “mây sấm nổ sét đánh, tuông
giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”.
Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn
Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm
diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Diệp Y Quán Âm: Ngài
hiện thân Thiên nữ, đội bảo quan, trên bảo quan có hóa
thân Vô Lượng Thọ Phật. Quanh thân có vòng lửa, ánh sáng trong
suốt khắp thân. Có bốn tay, hai tay bên phải, một tay cầm quả
cát tường để trước ngực, một tay kết thí nguyện ấn; hai tay bên
trái, một tay cầm rìu, một tay cầm sợi dây, ngồi trên hoa sen.
Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu
không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát cứu giúp thủ hộ những người gặp nạn được
an ổn. Hoặc trôi dạt biển lớn, các nạn quỷ cá rồng, do sức
niệm Quán Âm, sóng mòi chẳng chìm đặng. Quán Thế Âm Bồ tát là
thần thủ hộ trên biển. Hình tượng của Ngài biểu hiện tướng tĩnh
lặng.
Viên Quang Quán Âm: đây
là Quán Thế Âm Bồ tát lòng từ ái viên mãn, biểu trưng
bằng ánh quang minh quanh thân. “sáng thanh tịnh không nhơ, huệ
nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế
gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng
thuyết pháp.
Sái Thủy Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát đứng trên tường vân tay cầm chén nước
rưới xuống. Lòng bi răn như sấm, ý từ diệu dường mây, như mưa
pháp cam lộ, dứt trừ lửa phiền não. Sái thủy là rưới một loại
nước thơm, là pháp tu tụng niệm gia trì làm cho thanh tịnh. Đây
là bổn thệ của Quán Thế Âm để khai ngộ Phật tánh của tất cả
chúng sanh.
Lục Thời Quán Âm: là
vị Bồ tát ngày đêm từ bi thủ hộ chúng sanh. Thời xưa miền
Bắc Ấn Độ một ngày đêm chia làm sáu thời, một năm cũng chia
làm sáu thời là: “nắng ít, nắng nhiều, mưa, mát, lạnh ít, lạnh
nhiều”; Do đó mà nói thành “Quán Thế Âm thường trông chúng
sanh”.
Trì Liên Quán Âm: Là
Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát
lấy hoa để biểu trưng cho bổn thệ, vì cầm hoa sen đã nở hay chưa
nở nên còn gọi là liên hoa thủ. Vì hoa sen có nhiều nhơn duyên
đặc thù nên cũng lấy hoa sen làm đài. Hình tượng Quán Âm đứng
trên lá sen, hai tay cầm hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y,
viên mãn trang nghiêm.
Bất Nhị Quán Âm:
là biểu tượng bổn và tích bất nhị của Quán Thế Âm. Phẩm Phổ
Môn chép: “người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ
thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp. Quán Thế Âm là
vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì bổn và
tích đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng
Ngài ngồi trên bệ đá hai tay chấp trì kim cang xử.
Ngư Lam Quán Âm:
là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá và nhánh lá. Do Ngài thấy con
sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì
vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện
rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm
chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu,
kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều
phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn
nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa
thân đứng trên sông.
Nham Hộ Quán Âm:
là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trong hang đá. phẩm
Phổ môn chép: "Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do
sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi". Thường trong hang động
có nhiều chướng khí và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối
với những người qua núi, Quán Thế Âm hiện ra thì mọi nguy hiểm
đều tiêu tan hết.
Chúng Bảo Quán Âm:
là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu.
Nếu có chúng sanh vì tìm cầu báu vật như vàng bạc, lưu ly,
mã não, san hô, hổ phách, trân châu... vào trong thâm sơn đại
hải, giả sử gió lớn thổi trôi dạt đến nước quỷ La Sát, nếu có
một người xưng danh hiệu Ngài, thì đều được giải thoát. Hình
tượng của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Đa La Quán Âm: dùng
vật báu vô giá trang nghiêm thân để trừ khổ não cho chúng
sanh, tất cả chúng sanh vui ưa vào pháp giới chư Phật. Ngài
hiện thân người con gái, tướng mạo từ bi, mặc y trắng, hai tay
hiệp chưởng cầm hoa sen xanh.
Vô Úy Quán Âm:
Hình tượng của Ngài rất đặc thù có ba mắt bốn tay, ngồi trên
lưng sư tử trắng, đội bảo quan, hai tay bên phải, một tay
cầm hoa sen trắng, một tay cầm con chim cát tường trắng; hai tay
bên trái, một tay cầm pháp khí hình con phượng 3 đầu, một tay
cầm con cá. Khắp thân có ánh sáng, mặc thiên y đeo anh lạc, diên
mạo rất đoan nghiêm.
Lưu Ly Quán Âm:
Tương truyền vào thời Bắc Ngụy, Tôn Kính Đức trấn giữ biên
cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ. Sau bị
Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy
phải trì tụng một ngàn biến kinh “Diên Mạng Thập Cú Quán Âm”,
lúc tử hình ông ba lần chém nhưng không chút thương tích, nên
ông được tha chết. Vì phụng thờ lễ bái Quán Thế Âm Bồ tát mà đầu
ông còn hiện ba vết sẹo. Hình tượng Ngài cầm bình lưu ly
xanh, đứng trên cánh hoa sen du hóa trên mặt nước.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Đời
Đường có một mỹ nữ mà những người con trai đều tranh
nhau cưới, nàng nói trong một đêm nếu đọc thuộc được phẩm Phổ
Môn sẽ lấy làm chồng, đêm ấy có hai mươi người thuộc, lại một
đêm tụng trọn bộ kinh Kim Cang cũng sẽ lấy làm chồng, đêm ấy còn
lại mười người, sau ba ngày có thể tụng thuộc Kinh Pháp Hoa thì
sẽ kết ước. Trong số đó chỉ có người thanh niên họ Mã
được chọn. Ngày kết hôn người con gái bỗng dưng chết biến thành
ánh sáng bay lên không trung biến mất. Hình tượng Ngài cầm quyển
Kinh Pháp Hoa và cây gậy có hình đầu lâu.
A Nậu Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát quán sát mọi động tĩnh của đại hải. Thệ
nguyện của Ngài như bài kệ:“ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các
nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình
tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay
trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải,
mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn
trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
Phổ Bi Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong
tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại
Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó
nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu
tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm.
Du Hý Quán Âm:
Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại,
không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du
hý tự tại.
Long Đầu Quán Âm:
là Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên lưng rồng. Rồng là vua trong
các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ
tát; Long Vương đến mang mây mưa sấm chớp chiếu diệu khắp trời
đất, thấm nhuần muôn vật, tất cả đều tán thán uy lực của Long
vương. Ngài hiện thân ngồi kết già trên mình rồng thuyết pháp
cho chúng sanh.
Liên Ngọa Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện tọa ngọa trên lá sen. Ngài
hiện thân Tiểu Vương trong phẩm Phổ Môn, để thí dụ cho thân Tiểu
Vương tôn quý ngồi trên lá sen. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già
hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo
anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh.
Uy Đức Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì
chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “người đáng dùng thân
Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên
Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có
đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của
Ngài là tay trái cầm kim cang xử biểu hiện uy thế để chiết
phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi
trên bệ đá.
Bạch Y Quán Âm: còn
gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu. Toàn thân Ngài mặc y trắng,
ngồi kết già trên hoa sen trắng, đầu đội khăn, tay trái cầm
hoa sen, tay phải kết dữ nguyện ấn. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh
và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái Ngài để cầu tiêu tai,
trường thọ.
Trì Kinh Quán Âm: còn
gọi là Thanh Văn Quán Âm. Thanh Văn là nghe Phật thuyết
pháp được khai ngộ mà xuất gia. “người đáng dùng thân Thanh
Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói
pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường.
Diên Mạng Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát bảo hộ thọ mạng chúng sanh. Phẩm Phổ
Môn chép: “nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do
sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Có thể tiêu trừ chú
thuật nguyền rủa và độc dược thêm tuổi thọ, cho nên gọi là Diên
Mạng Quán Âm. Ngài đội bảo quan, mặc Thiên y, anh lạc trang
nghiêm, 20 cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh.
Dương Liễu Quán Âm: còn
có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, bổn nguyện của
Ngài là bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh, vì chúng
sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương. Dương liễu mềm
mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ
tát. Thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự
kỳ nguyện phước đức.
Thanh Cảnh Quán Âm:
có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải,
nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ
tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống
hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình
tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay
phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức
là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát trong Thai Tạng
Mạn trà la, mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cang, Quán Thế
Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình
tượng của Ngài ngồi kết già trên hoa sen nổi trong đại hải,
tay trái cầm hoa sen, tay phải kết thí vô úy ấn, trong lòng bàn
tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng nên gọi là
Thủy Nguyệt Quán Âm.
* Nhuận Thường giới thiệu