Nếu tính đời người là một trăm năm thì một ngàn năm chỉ bằng
mười đời người hoặc mười người cộng lại; vả lại, không gian vô tận, thời
gian vô cùng thì một ngàn năm là giấc chiêm bao còn lưu trên hoang tích
của vôi vữa, đá gạch nằm trong lòng đất!
LTS: Trong không khí Đại Lễ Nghìn năm
Thăng Long diễn ra ồn ã và náo nức, Tuần Việt Nam xin giới thiệu những
bài viết lắng đọng hoài niệm lại nét văn hóa lịch sử, lối sống thanh
lịch của người Tràng An xưa. Những người đang sống ở Hà Nội hôm nay và
mai sau gìn giữ và phát huy thế nào để luôn mang trong mình những giá
trị đó? Mời các bạn cùng thảo luận TẠI ĐÂY hoặc qua địa chỉ tuanvietnam@vietnamnet.vn
Thế nhưng, một ngàn năm đó chỉ như mơ hồ trên sách vở, hoặc ảo ảnh
giữa hư vô kể từ Minh Vương Lý Thái Tổ di đô từ Hoa Lư về thành Đại La
năm 1010 (Thuận Thiên thứ 1, vào tháng 7), mà di tích được khám phá trên
một vùng rộng lớn tại thủ đô Hà nội vẫn còn là minh chứng thật cho một
huyền sử xa vời!
Có ý kiến cho rằng, nên dựng tượng đài Thiền Sư Vạn Hạnh trên đất Hà
Thành, và có những con đường mang tên vị Quốc sư lỗi lạc ấy, để nhắc nhở
mọi người luôn ghi nhớ đến công đức của tiền nhân. Thiết nghĩ, ý tưởng
đẹp này sẽ được thực hiện trong nay mai khi mà mọi người đã ý thức thấy
được những việc cần làm, nên làm.
Muốn thực hiện ý tưởng hay đẹp đó, chúng ta nên từng bước chuẩn bị,
nghiên cứu, giáo dục tác động sao cho mọi người hiểu rõ lịch sử dân tộc
Việt Nam từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước. Tìm hiểu Thiền Sư Vạn
Hạnh? Lý Công Uẩn là ai? Nhân tố nào đã nuôi dưỡng, hun đúc nên vị vua
anh minh này, người đã lập ra một Lý Triều nức tiếng nhân từ trong lịch
sử dân tộc.
|
Chúng
ta tổ chức Đại lễ không phải chỉ để hoài niệm một lịch sử hào hùng đã
qua, mà còn khôi phục được giá trị hiện sinh của Lý Triều nhân từ, đã và
đang nuôi dưỡng dân tộc Việt Nam trong từng phút từng giây hiện tại.
|
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam suốt chiều dài mấy ngàn năm danh
sử, những vị vua từng có công dựng xây và chấn hưng đất nước là chuyện
bình thường, cũng như có những đời vua làm băng hoại tổ quốc và trụy lạc
cá nhân cũng không thiếu, thế nhưng, Lý Công Uẩn, mở đầu cho những
triều đại kế tục, suốt hơn bốn thế kỷ đem lại thái bình cho nhân dân và
thống nhất giang san một mối, tạo sự kiêng nể cho ngoại xâm, dẹp tan ý
đồ bá quyền của nước lớn và bình định lân bang bằng ngoại giao, bằng uy
tín, bằng chiến lược và kể cả sức mạnh quân sự.
Như lịch sử đã ghi nhận, Lý Công Uẩn vốn xuất thân từ nhà chùa, con
nuôi của Lý Khánh Vân và là đệ tử truyền thừa của Thiền sư Vạn Hạnh. Từ
bé đã không cha, mang một lý lịch huyền thoại, nhưng cốt cách sinh hoạt
thường nhật của một chú bé ở chùa chứng tỏ một con người không mang
tính huyền thoại để bước vào đời nhận lãnh trách nhiệm gánh vác giang
san trên đôi vai một Phật tử. Triều đại Lê Long Đỉnh, Lý Công Uẩn làm
Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.
Trong hàng quan tướng tứ trụ vương triều thì Lý Công Uẩn tỏ ra nhân
hậu, nhiệt tình, trung thành, được lòng quan triều và tín nhiệm của Lê
ngọa Triều. Tuy Lê Long Đỉnh tỏ ra hư hỏng, tha hóa và độc ác đối với lê
dân cũng như thô bạo đối với sư sãi, giải khuây bằng sự chết chóc của
tội nhân, tham dâm vô độ, giết anh cướp ngôi (1)...đã làm mất lòng dân
cực độ, thế mà Lý Công Uẩn vẫn tròn đạo nghĩa vua tôi, chính vì thế mà
Lý Công Uẩn được Lê Long Đỉnh rất tin tưởng.
Lê Long Đỉnh băng hà lúc 24 tuổi, con còn quá nhỏ. Đào Cam Mộc và
quần thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ứng với điềm lành báo trước cây
gạo ở chùa làng Diên Uẩn, (Cổ Pháp) bị sét đánh mà Vạn Hạnh tiên đoán
nhà Lê suy Lý Thịnh;
Cho dù Lý Công Uẩn được Đào Cam Mộc và Vạn Hạnh thiền sư hậu thuẫn,
nhưng không có thần khí nhân từ, chơn mạng đế vương được lòng thiên hạ
thì cũng khó mà cửu trụ.
Lý Công Uẩn lên ngôi chưa tới 40 tuổi, thế mà có tầm nhìn của một
lãnh tụ thiên tài; Hoa Lư là mãnh đất từng chống ngoại xâm cũng như
dẹp loạn sứ quân của nhị vị Tiên đế Đinh- Lê, có nghĩa Hoa Lư chỉ là
vùng tử thủ, chứ không thể là địa công; vùng chiến lược quân sự mà không
là chiến lược kinh tế và phát triển cơ đồ. Từ xưa, các triều đại từng
có việc dời đô, nhưng việc di đô lại thể hiện tính dân chủ trong thời
phong kiến như Lý Thái Tổ:
"Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô[7], nhà Chu
đến đời Thành Vương ba lần dời đô[8], há phải các vua thời Tam Đại[9];
ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở
chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới
theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong
tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường
mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi
đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn
vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[10], ở giữa khu vực trời
đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi
núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà
sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt
phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội
quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?" (Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư).
Chính vì thế mà quan dân đều đồng thuận. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi
nhận:[6] Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho
nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc
giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng.
Được thế, thì dù tượng đài của Thiền Sư Vạn Hạnh tuy chưa được thực
hiện, nhưng hình ảnh Ngài, tâm hồn Ngài đang có mặt trong trái tim,
trong khối óc của mỗi chúng ta, và chính chất liệu đó đã tác thành, cống
hiến cho dân tộc Việt Nam một Thánh quân Lý Công Uẩn.
Vậy thì, lễ mừng Hà Nội ngàn năm Thăng Long quả là một sự kiện lịch
sử hy hữu trên thế giới, vì chúng ta tổ chức lễ hội này không phải chỉ
để hoài niệm một lịch sử hào hùng đã qua, mà còn khôi phục được giá trị
hiện sinh của Lý Triều nhân từ, đã và đang nuôi dưỡng dân tộc Việt Nam
trong từng phút từng giây hiện tại.
Vận nước như dây quấn
Trời Nam ôm thái bình
Đạo đức ngự cung điện
Muôn xứ hết đao binh.