cũng không nhận được sự hoan nghênh lâu bền mà những
tông phái khác như Thiền và Tịnh Độ đã có.
Thực ra, Mật tông có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc hơn
những gì được thừa nhận. Những bản kinh có liên quan đến việc thực hành
Mật tông, cũng như các Tăng sĩ am hiểu về một vài kỹ thuật Mật, đã có
mặt sớm trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc và có những đóng góp to lớn
trong việc phổ biến Phật giáo ở xứ này. Suốt đời Đường (618 - 906),
những Tăng sĩ nước ngoài và Trung Quốc đã cố công truyền bá hình thức
Phật giáo này; và vào thế kỷ thứ VIII và thứ IX, dưới sự bảo trợ của
nhà vua, Mật tông trở thành một trong những tông phái chính của Phật
giáo Trung Quốc. Về sau, mặc dù là một trào lưu riêng biệt và đã biến
mất, nhưng những yếu tố lễ nghi và niềm tin Mật tông vẫn còn tồn tại
cho đến thế kỷ hiện tại, thấm sâu vào trong Phật giáo Trung Quốc. Cần
ghi nhận thêm rằng, trong khi người Trung Quốc cho thấy là đã không
thêm gì nhiều vào Mật tông Phật giáo Ấn Độ mà họ tiếp nhận, thì Mật
tông dưới triều đại nhà Đường đã được tiếp biến và đóng vai trò nòng
cốt trong việc hình thành nên những truyền thống Mật tông Nhật Bản là
Chân Ngôn (Shingon) và Thiên Thai (Tendai), mà chúng phát triển thành
những truyền phái riêng đến ngày nay vẫn còn hưng thịnh.
Bởi vì Mật giáo chỉ tồn tại một thời gian ngắn như
là một trào lưu riêng biệt ở Trung Quốc, nên những tài liệu để nghiên
cứu về tông phái này tương đối giới hạn, nếu không muốn nói là không có
gì cả. Ngoài tiểu sử của các vị Tăng, những nguồn thông tin chính là từ
những bản dịch Mật kinh từ tiếng Sanskrit sang tiếng Trung mà hiện đang
có. Bởi vì những bản dịch này được xác định niên đại, nên chúng ta có
thể truy tìm dấu vết việc truyền bá Mật giáo vào Trung Quốc. Những học
giả Nhật đã phân những bản dịch này ra làm hai, một bên là những bản
kinh Mật "pha tạp" và một bên là những bản kinh "thuần túy". Nói chung,
những bản kinh nằm trong nhóm pha tạp được biên soạn ở Ấn Độ trước thế
kỷ thứ VII (TL), kết hợp những yếu tố thực hành Mật giáo mà chúng có
một lịch sử lâu dài trong Ấn Độ giáo: dũàranìs, mantras (các thần chú)
mudhràs (ấn quyết) và việc thờ phụng các vị thần. Mặc dù được cho là do
chính Đức Phật lịch sử thuyết giảng, những bản kinh này có rất ít liên
hệ đến giáo lý Phật giáo truyền thống. Vả lại, việc thực hành chủ yếu
liên quan đến việc đạt lấy thần lực và giải trừ tai họa. Ngược lại,
những bản kinh thuần túy được hình thành vào thế kỷ thứ VII và những
thế kỷ sau đó, cho thấy một giai đoạn mà ở đó việc thực hành Mật giáo
được tiếp nhận từ Ấn Độ giáo đã hoàn toàn tương thích với những thuật
ngữ Phật giáo Đại thừa. Những bản kinh chính được giới thiệu vào Trung
Quốc thuộc nhóm này gồm Mahàvairocana Sùtra (Đại Nhật kinh・・ ・・ ・S), cùng nhiều bản kinh khác mà nó được gộp lại dưới tiêu đề Vajrasáekhara Sùtra (Kim cương đỉnh kinh nghĩa quyết), và trong số này Tattàvsagraha Sùtta (Nhiếp chân thật luận) là quan trọng nhất.
Trong những bản kinh thuộc nhóm sau này, Đức Phật
Đại Nhật, hiện thân chân thật của tất cả các pháp, là vị giữ vai trò
chủ đạo. Những vị Phật và Bồ tát khác được giới thiệu như là hiện thân
của Đức Phật Đại Nhật, và hình ảnh của họ được miêu tả qua đồ hình Mạn
đà la (madala). Trong sự thực hành Mật giáo, chư Phật và Bồ tát được
xem là những đối tượng cho hành giả tập trung quán tưởng, mà mục đích
là để nhanh chóng đạt đến Phật quả (đốn ngộ). Thiền định bao gồm một
cấu trúc ba phần: thần chú, ấn quyết, và đối tượng cụ thể cần tập trung
quán tưởng. Thông qua kỹ thuật này, được gọi là thực hành Tam mật, hành
giả có thể nhận ra Phật tính chân thật của mình bằng sự hợp nhất với
Đức Phật Đại Nhật (hay bất kỳ hóa thân nào của Ngài) qua thân, khẩu và
ý.
Những bản kinh Mật pha tạp được truyền vào Trung
Quốc vào khoảng thế kỷ thứ III (TL). Vào năm 230, một vị Tăng sĩ Ấn có
tên là Trúc Luật Viêm đã dịch Màtangìsùtra (Ma đăng già kinh・
€・o・セ・S), một bản kinh chứa nhiều mật chú, trình bày cách thức đoán
sao, và dạy một loại nghi lễ tế lửa, điều này cho thấy Phật giáo đã
chịu ảnh hưởng nghi lễ tế lửa (homa) của Ấn giáo. Vào thế kỷ thứ IV,
việc giới thiệu văn học và thực hành Mật giáo pha tạp được tiếp tục,
chủ yếu do những Tăng sĩ Trung Á như Dharmaraka, được biết đến nhờ
những bản dịch kinh Pháp Hoa, và kinh Bát Nhã 25.000
dòng; Phật Đồ Trừng (・ナ・、・・) ở miền Bắc Trung Quốc và Śrìmitra ở miền
Nam, nổi tiếng do những năng lực huyền bí và sự thông hiểu của họ về
các mật chú; và Đàm Vô Đức (・ワ・ウ・・), một dịch giả của những tác phẩm
chứa đựng những thần chú chữa bệnh và những nghi lễ cầu đảo. Sự truyền
bá những bản kinh như thế này kéo dài từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ
VII. Việc nhấn mạnh vào phép thuật vẫn giữ nguyên, tuy nhiên có bằng
chứng là giáo lý Phật giáo trong những bản kinh này đã xuất hiện và lễ
nghi có sự hệ thống hóa. Chẳng hạn như Đại Tập kinh, do
Dharmaraka dịch, đã xếp thần chú (dhàranì) chung với giới, định và tuệ,
xem như là một sự thực tập mà một vị Bồ tát cần thuần thục.
Đến thế kỷ thứ VII, những bản kinh được truyền vào
đều cho thấy là thuần về Phật giáo Mật tông, từ kỹ thuật cho đến mục
đích. Bản dịch Thiên nhãn Thiên tỷ Quán Thế Âm Bồ tát Đà la ni thần chú
kinh của Trí Thông (・q・ハ) là một trong những bản dịch đầu tiên cho
thấy rằng mục đích cuối cùng của việc thực hành Mật là để nhanh chóng
chứng đạt Phật quả. Đà La Ni Tập kinh (・ノ・・・・・W・S) do Atiguta
dịch, phân tích về học thuyết Tánh Không của Phật giáo Đại thừa và
trình bày chi tiết các vị Phật và Bồ tát đã được miêu tả và ứng dụng
trong nghi lễ và quán tưởng Mật giáo. Vào cuối thế kỷ này, Phật giáo
Tịnh Mật được bắt đầu giới thiệu vào. Đạo sư Mật giáo Ấn Śubhàkarasimha
(637 - 735) và đệ tử người Trung Quốc của ông là Nhất Hành đã dịch kinh
Mahàvairocana (Đại Nhật). Vajrabodhi và đệ tử của ông là
Amoghavajra (705 - 774) đã giới thiệu những bản kinh thuộc truyền phái
Vajrasekhara. Chính những vị này đã phổ biến sâu rộng Phật giáo Mật
tông ở Trung Quốc.
Śubhàkarasimha và Nhất Hành
Śubhàkarasimha là người Đông Bắc Ấn và là một hoàng
tử. Ông trưởng thành từ rất sớm, được cho là đã cai quản quân đội của
cha mình khi mới 10 tuổi và lên ngôi vào năm 13 tuổi. Tuy nhiên, một
cuộc chiến giành quyền lực đã diễn ra giữa Śubhàkarasimha và anh em của
ông. Mặc dù chiến thắng, nhưng ông đã quyết định trao vương triều lại
cho người anh cả và xuất gia đầu Phật. Là một Tăng sĩ, ông đã đi khắp
nơi, nghiên cứu và trình diễn các phép thuật, và cuối cùng đã trú lại
Đại học Phật giáo Nàlandà. Ở đó, ông được Dharmagupta hướng dẫn thực
hành Tam mật. Sau đó ông lại lên đường, hành hương đến nhiều nơi, giảng
dạy cho những người chưa có niềm tin "tìm Phật bên trong họ".
Dharmagupta sau đó yêu cầu ông đến Trung Quốc. Trên đường đi, ông
thuyết giảng kinh Mahàvairocana cho dân chúng Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Tạng mà ông gặp.
Khi ông đến kinh đô Trường An vào năm 716 thì đã 80
tuổi. Hoàng đế Huyền Tông (・コ・@, 712 - 756) đã giữ ông lại trong cung
và phong làm Quốc sư. Śubhàkarasimha được cho là đã "giúp nhà vua thể
nhập con đường Như Lai". Tuy nhiên trong thực tế Huyền Tông cảm kích
bởi những phép thuật mà vị Tăng này đã thực hiện hơn là những hướng dẫn
của ông về việc đạt đến Phật quả. Trước khi vị đạo sư Mật giáo này đến,
vua Huyền Tông đã rất yêu chuộng huyền mật của Đạo giáo, và ông vẫn duy
trì niềm tin ấy cho đến khi băng hà. Ở Trường An, Śubhàkarasimha đã
thực hiện bản dịch đầu tiên của mình, Hư Không Tạng Bồ tát năng mãn chư nguyện tối thắng tâm Đà la ni cầu văn trì Pháp, một bản kinh chú được cho là giúp người thực hành phát triển trí nhớ. Năm 725, ông hoàn thành bản dịch kinh Mahàvairocana,
được xem là đóng góp quan trọng nhất của ông đối với việc truyền bá
Phật giáo Mật tông. Bản kinh tiếng Sanskrit này do vị Tăng người Trung
Quốc tên là Ngô Hưng gửi từ Ấn Độ về hơn 30 năm trước, và vị này về sau
đã thị tịch trên đường trở về cố hương. Tập đầu tiên của kinh này nhấn
mạnh rằng, biết được tâm như chính nó là thiết lập nên sự giác ngộ, và
phân tích, trình bày những mức độ khác nhau của việc chứng ngộ tâm
linh. Sáu tập kế tiếp trình bày về mạn đà la và việc tu mật mà nó giúp
hành giả nhận chân được bản tâm vốn sáng suốt của mình. Mạn-đà-la được
dựa trên bản kinh này mô tả Đức Phật Đại Nhật ngồi trên hoa sen tám
cánh, bao quanh là bốn vị Phật và những vị Bồ tát hầu cận.
Đệ tử của Śubhàkarasimha, Nhất Hành, là một trong
những nhân vật nổi bật nhất của lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Khi còn
trẻ, ông nghiên cứu về ngôn ngữ Trung Quốc, và sau đó nổi tiếng về khả
năng am hiểu Lão giáo. Cha mẹ ông qua đời khi ông 21 tuổi. Sau đó ông
xuất gia tu theo Thiền tông, dưới sự hướng dẫn của Phổ Tịch một thiền
sư người miền Bắc. Vào thời điểm quay sang với Mật tông, ông không chỉ
đã nghiên cứu kinh luật của Thiên Thai tông, mà bản thân cũng kiệt xuất
trong toán học và thiên văn; chính điều này mà năm 721, Hoàng đế Huyền
Tông đã triệu ông vào cung để sửa đổi lịch. Nhất Hành bắt đầu nghiên
cứu Phật giáo Mật tông với Vajrabodhi, người đã đến Trường An vào năm
719. Vajrabodhi hướng dẫn ông thực hành theo truyền phái Vajrasekhara.
Năm 724, Nhất Hành gặp Śubhàkarasimha ở Lạc Dương . Ông đã phụ giúp bản
dịch kinh Mahàvairocana, và sau đó tiếp tục biên soạn sách, tác
phẩm đã gắn tên tuổi ông vào lịch sử Phật giáo Mật tông. Đây là một bộ
luận giải kinh gồm 20 tập, được dựa trên những bài giảng của
Śubhàkarasimha. Không lâu sau khi kết thúc công trình, vị Tăng xuất
chúng này đã thị tịch, mất trước người thầy của mình tám năm.
Vajrabodhi và Amoghavajra
Chúng ta có thể tự tin khi nói về nơi sinh và gốc
tích gia đình của Vajrabodhi. Ông gia nhập vào Tăng đoàn khi còn rất
trẻ và theo học tại Đại học Nalanda. Những năm sau đó, ông đọc nhiều
kinh điển và thông hiểu cả học thuyết Đại thừa và Tiểu thừa, cũng như
luật học. Năm 31 tuổi, ông gia nhập vào truyền phái Mật giáo
Vajrasekhara ở Nam Ấn. Khi ở Ấn Độ, Vajrabodhi nghe nói về việc phát
triển Phật giáo rộng rãi tại Trung Quốc và có ý muốn đến đó truyền
giáo. Với sự trợ giúp của một vị vua Nam Ấn, ông đã khởi hành bằng
đường biển từ Sri Lanka, và cuối cùng đến Trường An vào năm 719 và Long
Nham vào năm 720. Ngay khi vừa đến, ông đã bắt đầu tiến hành lễ nhập
môn, diễn thuyết và thiết lập nhiều mạn-đà-la, truyền bá Phật giáo Mật
tông. Vajrabodhi nhanh chóng được Hoàng đế Huyền Tông chú ý, và giống
như Śubhàkarasimha, ông đã được triệu đến để thi thố thần lực của mình.
Ông được cho là có lần đã cầu được mưa, và một lần khác đã cứu được
mạng sống của một công chúa 25 tuổi mang trọng bệnh sắp chết. Trong
suốt 21 năm hành hoạt ở Trung Quốc, ông đã giới thiệu trên hai mươi bản
kinh và những tập sách nghi lễ, hầu hết đều thuộc về truyền phái
Vajrasekhara. Quan trọng nhất trong những công trình dịch thuật của ông
là chương đầu của kinh Tattvasagraha. Khác với kinh Mahàvairocana,
tác phẩm này không có phần giới thiệu triết học ở đầu. Từ chương đầu,
nó đã đề cập đến mạn-đà-la và việc quán tưởng giúp đạt đến giác ngộ.
Trong số những đệ tử của Vajrabodhi, nổi bật nhất là
Amoghavajra, người cho thấy là có nhiều công trạng trong việc phát
triển Phật giáo Mật tông hơn bất cứ vị Tăng sĩ nào được bàn đến.
Amoghavajra sinh năm 750, hầu như chắc chắn là ở Trung Á. Cha của ông
là một người Bà-la- môn xuất thân từ Bắc Ấn; mẹ của ông là người
Samarkand. Sau khi cha ông qua đời, ông được nuôi dưỡng tại quê mẹ cho
đến lúc mười tuổi, và rồi được cậu của mình đưa đến Trung Quốc. Chính
tại Trường An, vào năm 719, ông đã gặp Vajrabodhi và rồi xuất gia. Đầu
tiên ông học Phạn ngữ và nghiên cứu giới luật, nhưng sau đó ông thụ
giáo và tu học theo truyền phái Mật tông Vajrasekhara. Amoghavajra đã
theo thầy mình cho đến khi thầy tịch. Sau đó vào năm 743, ông đã lên
đường sang Ấn Độ và Sri Lanka để thu thập những kinh sách Mật giáo. Khi
ở Sri Lanka, ông được học thêm về Phật giáo Mật tông. Vào năm 746 ông
quay trở lại Trường An, mang theo trên năm trăm bộ kinh và luận giải.
Mãi cho đến khi qua đời, vào năm 774, ông đã dịch trên 100 quyển trong
số những kinh sách này và đã ấn định tên tuổi như là một trong những
dịch giả vĩ đại trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Trong số những tác
phẩm có ảnh hưởng nhất của ông, phần dịch chương mở đầu của kinh Tattvasamgraha được
xem là bản hoàn thiện hơn bản dịch của Vajrabodhi. Vào những năm sau,
chính bản này được xem như là nguồn chủ yếu cho việc họa mạn-đà-la Kim
cương. Amoghavajra cũng truyền bá Mật tông thông qua việc thiết lập
những đạo tràng tu tập trong chùa cả trong và ngoài kinh đô, và tất cả
ba vị vua cai trị trong suốt quãng đời của ông đều tìm đến ông trong
việc cầu đảo và trị bệnh, những phép màu mà họ mong đợi từ những Tăng
sĩ Mật tông. Khi An Lộc Sơn (・タ・\・R) nổi loạn vào năm 755, Amoghavajra
cũng được triệu đến cúng tế để bảo vệ vương quốc. Và khi Amoghavajra
qua đời, vua Thái Tông đã cho bãi triều ba ngày.
Trong số những đệ tử nổi bật của Amoghavajra, Huệ
Quả (746-805) là người trẻ nhất, và vị này có ảnh hưởng lớn nhất đối
với lịch sử Mật tông ở Đông Á về sau. Có hai phương diện đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp của ông. Trước hết, Huệ Quả cho thấy là đã có chủ
ý tìm cách hợp nhất hai truyền phái Mật tông Phật giáo. Ông nhập môn
truyền phái Vajrasekhara từ Amoghavajra, và từ Huyền Siêu ・コ ・エ), một
đệ tử của Śubhàkarasimha, người đã nhận truyền bá kinh Mahavairocana và một bản kinh liên quan là Susiddhikara.
Huệ Quả dường như là người đầu tiên cho rằng cả hai truyền phái đều có
giá trị ngang nhau. Những thế hệ sau đó, các vị Tăng nói chung đều thụ
giáo theo cả hai truyền phái. Thứ hai, Huệ Quả đã góp phần truyền bá
Mật tông ra ngoài Trung Quốc. Trong số những đệ tử của ông có một Tăng
sĩ người Nhật tên là Kùkai (774 - 835), người sáng lập tông phái Chân
Ngôn. Người sáng lập tông Thiên Thai của Nhật, Shacho (767 - 822), cũng
nghiên cứu Mật tông trong suốt thời gian ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hầu
như không có điều gì được biết về người thầy của ông, Thuấn Hiệu (・w
・チ), và đặc điểm chính xác mà ông đã nhận là không rõ ràng. Mãi cho đến
khi Ennin (794 - 864) và Enchin (814 - 891) viếng thăm Trung Quốc và tu
học với những nhân vật thuộc truyền phái Huệ Quả, Mật tông mới được sáp
nhập một cách trọn vẹn vào những giáo thuyết Thiên Thai tông của Nhật.
Mật tông không hưng thịnh vào đời Tống (960 - 1279),
mặc dù một vài bản dịch mới được thực hiện, trong số chúng đáng kể nhất
là bản dịch Tattvamgraha của Tịch Hộ (cuối thế kỷ X). Trong
suốt triều Nguyên (1280 - 1367), Mật giáo Tây Tạng được giới thiệu vào
Trung Quốc, nhưng không có bản dịch hay sự tương tác nào với Tây Tạng
có sự ảnh hưởng. Tuy nhiên, Mật giáo giữ được một vị trí trong truyền
thống, điều có thể thấy được qua sự nghiệp của hai nhân vật lớn vào
triều Minh (1368-1644): Chu Hồng (・・・・ 1535 - 1615) và Hàn Sơn (・ヲ・R
1546 - 1623). Phản ánh đặc tính chung của Phật giáo ở thời kỳ này, họ
dạy một giáo thuyết dung hợp Tịnh độ, Thiền, và các trường phái khác;
nhấn mạnh vào tầm của Phật giáo ở thời kỳ này, họ dạy một giáo thuyết
dung hợp Tịnh độ, Thiền, và các trường phái khác; nhấn mạnh vào tầm nên
họ nên họ người trong xã hội.
PAUL B. WATT - NGHIỆP ĐỨC dịch