Trong tư thế kiết-già, tay bắt ấn cam lộ, ông ngồi
vững như một pho tượng đồng trong khi ngọn lửa cháy lên cao gần 4 thước, phủ
trọn cả thân hình ông. Đó là vào khoảng đầu giờ Ngọ ngày 11 tháng 6 năm 1963.
Lửa cháy trước con mắt kinh ngạc của những ký giả và nhiếp ảnh gia quốc tế. Lửa
cháy trước niềm xót thương và lòng kính cẩn của quần chúng có mặt tại đó. Xe cộ
dừng lại cả và mọi người đều vây quanh cảnh tượng hào hùng chưa từng thấy xảy
ra ở thủ đô Sài Gòn. Mười lăm phút sau, nhục thân của Thiền sư ngã xuống, tiếng
kêu khóc của quần chúng vang lên nức nở. Vài giờ đồng hồ sau, hình ảnh và tin
tức về Thiền sư Quảng Đức tự thiêu đã tràn ngập trên các hệ thống truyền hình
và báo chương quốc tế...
Thiền sư Quảng Đức sinh năm 1897 tại làng Vạn Khánh,
quận Vạn Ninh thuộc tỉnh Khánh Hòa… Ông đã có ý tự hiến mình cho cuộc vận động
từ ngày 27-5-1963 khi ông viết một lá thư gửi Giáo hội Tăng-già toàn quốc, phát
nguyện tự thiêu để đóng góp vào công trình tranh đấu. Lời thỉnh nguyện này bị
Giáo hội bác bỏ. Tuy vậy, ông vẫn quyết tâm thực hiện ý nguyện. Sáng ngày
11-6-1963, trước khi tự thiêu, ông đã viết để lại một lá thư gọi là Lời
nguyện tâm quyết, nói rõ chủ định và nguyện vọng của ông. Điều đáng ghi nhớ
là toàn văn bức thư này đã không chứa đựng
một mảy may hận thù và tuyệt vọng nào, trái lại còn thấm nhuần tình
thương và hy vọng…
Ngày 20-6-1963, nhục thân của Thiền sư Quảng Đức được rước
về An dưỡng địa ở Phú Lâm để làm lễ hỏa thiêu. Chính quyền chỉ cho phép khoảng
hai trăm vị Tăng Ni tham dự vào đám rước này và buộc phải đi bằng xe hơi. Tuy
vậy, suốt dọc đường, hương án của tư gia đã được bày ra hai bên lề với đèn
hương nghi ngút để bày tỏ sự thành kính đối với vị Thiền sư mà từ đây mọi người
bắt đầu xưng tụng là Bồ-tát Quảng Đức. Ngọn lửa hỏa thiêu đã không đốt cháy
được trái tim của Thiền sư. Trái tim này được đem thiêu lần thứ hai với sức
nóng 4.000 độ nhưng vẫn không cháy…” (Việt Nam Phật giáo sử luận III, Nxb. Lá Bối, Paris 1985, trang 356 - 358, 407).
Ngọn lửa Thích Quảng Đức - ngọn lửa từ bi
Thời điểm lịch sử sáng rực như vậy
tất nhiên là đã được ghi nhận mô tả và quảng diễn (báo chí, sách vở...). Nhưng
để có được một sự ghi nhận mang tính khắc họa bằng thứ ngôn ngữ hình tượng,
giàu âm điệu, tức phải có sự nhập cuộc của văn học. Và thật là may mắn cho lịch
sử Phật giáo Việt Nam, may
mắn cho văn học Phật giáo Việt Nam,
chúng ta đã có tác phẩm Lửa Từ Bi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, một khắc
họa tuyệt vời về ngọn lửa Quảng Đức:
Nếu ngọn lửa tự thiêu của Bồ-tát
Quảng Đức đã thắp sáng lên tinh thần vô úy, tỏa lên sức mạnh của từ bi và trí
tuệ, góp phần đẩy bánh xe lịch sử của dân tộc tiến lên phía trước, thì bài thơ Lửa
Từ Bi là một chứng tích, một dấu ấn văn học đậm đà của một thời kỳ lịch sử,
một khẳng định bằng ngôn ngữ thi ca cho vầng sáng cao tột của Phật giáo Việt
Nam trong dòng chảy của dân tộc.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1916
-1976) vốn không xa lạ với giới Phật học Việt Nam cận hiện đại. Những câu thơ lục
bát của ông phản ánh những thao thức của chính bản thân về những biến thiên của
ngoại cảnh, về những khổ đau lầm lạc của kiếp người, đã được nhiều tài liệu văn
học Phật giáo trích dẫn:
“Ta còn để lại gì không
Kìa non đá lở nọ sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa
chớp bốn bề một phương…”.
(Dẫn theo
Mãn Giác: Phật giáo và Văn hóa Việt Nam,
Đại học
V.H xb, S, 1967, trang 60)
“Phật có bàn tay dẹp bất bình
Cả ngàn con mắt chiếu vô minh
Chỉ đôi tai Phật, sao nghe xiết
Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh!
(20-9-63)
(Tiếng
khóc giờ đây,
trích từ tuyển tập Lửa Từ Bi -1963)
Trước đấy, họ Vũ cũng đã từng Việt
dịch rất đạt một số bài thơ chữ Hán liên quan tới cửa thiền. Chẳng hạn đây là
bản Việt dịch của Vũ Hoàng Chương từ bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Tiều Đẩu
viết về chùa Tra Am của Thiền sư Viên Thành (1879-1928):
Bóng gợn cầu
tre nhịp ngọ chung
Âm u Tăng
viện lối đi vòng
Chủ nhân ngồi
nhập Thiền bên cửa
Hoa nở chim
kêu chứng tỏ lòng
(Lộ chuyển thôn khê Tăng viện thâm
Ngọ chung thanh đậu trúc kiều âm
Chủ nhân tọa định tây song lý
Ly điểu đình hoa chứng đạo tâm).
(Dẫn theo Việt
Nam
Phật giáo sử luận III, Sđd, trang 124).
Và bây giờ là Lửa Từ Bi.
Bài thơ được hoàn thành vào ngày 15-7-1963, tức sau ngày nhục thân của Bồ-tát
Quảng Đức đã trà tỳ và Trái tim bất diệt đã xuất hiện. Tất nhiên, có ngọn lửa
Quảng Đức thì mới có Lửa Từ Bi, nhưng chính Lửa Từ Bi, từ cảm
hứng thiên tài của một nhà thơ mộ Phật cùng yêu chuộng lẽ công bằng, bài thơ Lửa
Từ Bi đã làm rạng rỡ hơn nữa, mãi mãi làm rạng rỡ hơn nữa hình ảnh ngọn
lửa Quảng Đức:
Lửa, lửa cháy
ngất tòa sen
Tám chín
phương nhục thể trần tâm
Hiện thành
thơ, quỳ cả xuống
Hai vầng sáng
rưng rung
Đông Tây nhòa
lệ ngọc
Chắp tay đón
một mặt trời mới mọc
Ánh đạo vàng
phơi phới đang bừng lên, dâng lên.
Dùng danh xưng Lửa Từ Bi, Vũ Hoàng
Chương đã đóng góp, làm phong phú thêm hình tượng từ bi vốn đã hiện diện một
cách sinh động trong văn học Phật giáo Việt Nam:
Chói lọi một vầng tuệ nhật
Ùn ùn mấy đóa từ vân
Tam giới soi hòa trên dưới
Thập phương trải khắp xa gần.
(Bài thơ Nôm cầu siêu cho Nguyễn Biểu
của sư chùa Yên Quốc)
Mây từ che khắp
Trời tuệ chiếu cùng
Ngắm đi ngắm đi
Thái sơn oai hùng!
(Bài minh Truy tán
Thiền sư
Nguyên Thiều)
Muôn nhờ Đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ cùng về Tây phương.
(Văn tế Thập loại chúng sinh
của Nguyễn Du)
Lần tràng hạt niệm Nam-mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu.
(Hương Sơn phong cảnh
của Chu Mạnh Trinh)
Và thuộc loại sớm nhất là câu phú của Thiền
sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần: “Nương am vắng, Bụt hiện từ bi, gió hiu
hiu mây nhè nhẹ”.
(Vịnh Hoa Yên tự phú)
Nhưng đây là Lửa Từ Bi. Một
thứ ánh sáng kỳ diệu được thắp lên từ một con người kỳ diệu với một nội lực kỳ
diệu. Ngọn lửa ấy, theo Vũ Hoàng Chương, đã bùng cháy từ đất nước Việt Nam nhỏ
bé, nhưng đã bừng sáng khắp Đông Tây, đã soi tỏa cả ba ngàn thế giới, vươn lên
tới chín tầng mây. Vì đấy là ánh sáng của tinh thần vô úy, là ánh sáng của từ
bi, của vị tha, là ánh sáng từ sự kết
tinh của một nền đạo học đã luôn gắn bó với dân tộc, với lịch sử. Ánh
sáng ấy có đủ vầng sáng của một mặt trời mới xuất hiện, có đủ cái bất động mà
vòi vọi của ngọn Hy Mã Lạp Sơn, có đủ cái dòng chảy cuồn cuộn mà trong veo của
con sông Hằng, có đủ bóng rợp mát rượi của cây bồ-đề, của ánh đạo vàng, nên mãi
mãi có đủ dũng lực để xua tan mọi nghi ngờ, thù hận, mọi bóng tối của vô minh
si ám. Ánh sáng ấy đã giúp cho người Việt Nam thấy rõ về mình hơn, biết mình
đang ở đâu và có thể làm gì, có thể sưởi ấm tình huynh đệ, biết nhìn và nhìn
đúng về quá khứ để hướng đến tương lai:
Rồi đây, rồi mai sau còn chi
Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát
Với thời gian lê vết máu qua đi
Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ-tát
Gội hào quang
xuống tận ngục A-tỳ…
Năm mươi năm đã trôi qua, bây giờ
(2013) đọc lại bài thơ Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương, theo chúng tôi thì
những giá trị thời sự, giá trị phản ánh, giá trị khắc họa… vẫn nguyên vẹn như
ngày nào. Đúng là hồng phúc của Phật giáo Việt Nam
đã sản sinh ra một bậc siêu nhân(*) như Bồ-tát Quảng Đức, thì cũng
có thể nói như vậy, tức hồng phúc của Văn học Phật giáo Việt Nam đã khiến
chúng ta có được bài thơ Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương.
Tháng 4-2013
Đào Nguyên
________________
(*) Chữ dùng của Trí Quang thượng nhân trong bài
Ngọn lửa Quảng Đức. In trong: Bồ-tát Quảng Đức - Ngọn lửa và trái tim,
NXb.Tổng Hợp TP.HCM, 2005, trang
147.