Đại sư thứ mười bảy: URGYEN TRINLEY DORJE (1985 - )
Đức Karmapa đời thứ mười bảy sinh ngày 8 tháng 5 năm Mộc Sửu theo 
lịch Tây Tạng, nhằm ngày 26 tháng 6 năm 1985, tại Lhathok, thuộc miền 
đông Tây Tạng, trong một gia đình du mục. Cha ngài tên là Karma Dưndrub 
và mẹ là Gazi Loga. Gia đình ngài sinh sống nhờ vào việc nuôi dưỡng một 
đàn bò khoảng 80 con, liên tục di chuyển từ vùng này đến vùng khác trên 
đồng cỏ bao la, thay đổi tùy theo bốn mùa trong năm. 
Gia đình ngài được kính trọng trong số khoảng 70 gia đình du mục cùng 
sống chung với nhau thành đoàn, với khoảng hơn 400 nhân khẩu.  Những 
người dân du mục này dễ dàng được nhận ra với làn da rám nắng và đôi gò 
má lúc nào cũng ửng đỏ. Cuộc sống của họ gắn liền với những lều trại 
liên tục di chuyển trên thảo nguyên.
Mặc dù vậy, theo một tập quán đã có từ lâu đời, ông bà Dưndrub đã mang 
đứa con trai đầu tiên đến tu viện Kampagar của dòng Nyingma, một trong 
các tu viện của Khamtrul Rinpoche để chuẩn bị cho việc trở thành một 
tăng sĩ trong tương lai. Sau đó, họ lần lượt hạ sinh cả thảy 5 đứa con, 
nhưng tất cả đều là con gái. Hết lòng mong muốn có được một đứa con 
trai, họ tìm đến đại sư Karma Norzang để thỉnh cầu sự giúp đỡ. Vị đại sư
này nổi tiếng là Milarepa tái sinh. Ngài ban cho họ những lời khuyên, 
và họ đã cố gắng hết sức mình thực hiện đúng những lời khuyên ấy. 
Theo lời khuyên của đại sư Karma Norzang, ông bà Dưndrub thường xuyên 
cầu nguyện, lễ bái, và kèm theo đó là bố thí cho người nghèo khó, thí 
thức ăn cho loài vật như chim, cá... và họ cũng hành hương đến thánh địa
Lhasa. Họ đã thực hiện những việc này với tất cả sự thành tâm cầu 
nguyện, nhưng có lẽ những hạt giống tốt lành ấy vẫn còn chưa đủ thời 
gian để nảy mầm, nên đứa con tiếp theo của họ vẫn là con gái.
Vào lúc ông bà Dưndrub muốn tiếp tục thỉnh cầu sự ban phước để có được 
một đứa con trai thì đại sư Karma Norzang đã viên tịch. Vì thế, họ tìm 
đến để thỉnh cầu sự chỉ dạy của đại sư Amdo Palden, vị trụ trì ở tu viện
Kalek, một tu viện dòng Karma Kagyu, vốn trước đây thuộc về đức vua 
Lhatok. Thoạt tiên, đại sư Amdo Palden không dám chắc rằng có thể giúp 
được gì cho trường hợp của hai người, nhưng sau nhiều lần thiền định 
quán chiếu ngài chấp nhận giúp hai người đạt được ý nguyện. Ngài nói 
rằng, họ có thể sinh được một người con trai, nhưng phải hứa chắc là sẽ 
giao đứa bé cho ngài chăm sóc và nuôi dưỡng. Ông bà Dưndrub vui mừng 
chấp nhận và hứa chắc với ngài là họ sẽ làm như vậy. Đại sư Amdo Palden 
liền tổ chức một buổi lễ ban phúc cho họ. 
Không bao lâu sau đó, bà Gazi Loga mang thai. Trong thời gian mang thai,
bà nằm mộng thấy 3 con hạc trắng bay đến dâng lên cho bà một bát sữa 
chua. Trên mặt váng sữa, bà nhìn thấy những dòng chữ sáng rực màu vàng, 
cho biết rằng bà sắp sinh ra một người con trai. Những con hạc trắng nói
với bà rằng chúng được Guru Rinpoche sai đến để báo trước việc bà sẽ hạ
sinh một bé trai, nhưng bà cần phải giữ kín điều này cho đến thời điểm 
thích hợp trong tương lai. 
Một lần khác, bà mơ thấy có 8 biểu tượng tốt lành xoay quanh trong một 
vầng sáng cầu vồng bảy sắc tỏa ra từ vị trí trái tim của bà. 
Một đêm trước khi ngài sinh ra, cha ngài nhìn thấy những vầng sáng cầu 
vồng trên mái lều họ đang ở. Ông vô cùng ngạc nhiên vì mặt trời đã khuất
sau dãy núi từ lâu. 
Đứa bé được sinh ra một cách dễ dàng, không đau đớn, ngay trước lúc 
những tia nắng đầu tiên chiếu sáng căn lều. Cùng lúc ấy, một con chim 
lớn đậu xuống nóc lều và cất tiếng hót lảnh lót. 
Hai ngày sau đó, trong không trung bỗng vang lừng âm thanh êm dịu và 
trầm ấm như tiếng tù và bằng vỏ ốc. Tất cả những người dân du mục quanh 
đó đều nghe thấy. Đức Karmapa đời thứ mười sáu đã có mô tả về âm thanh 
này trong bức di thư của ngài khi nói rõ về sự tái sinh sắp tới. Thoạt 
tiên, những người bên ngoài đều nghĩ rằng âm thanh ấy xuất phát từ bên 
trong căn lều, và những người trong lều lại cho rằng nó vang lên từ bên 
ngoài. Nhiều người liên tưởng đến tiếng lễ nhạc thường được cất lên khi 
có sự xuất hiện của các vị Lạt-ma cao cấp, nhưng họ lại không nhìn thấy 
gì cả. Chỉ sau đó, mọi người mới biết là âm thanh kỳ diệu kia đã vọng 
xuống từ không trung. Âm thanh kỳ diệu này kéo dài qua buổi trưa và đến 
hơn 2 giờ sau đó. Rồi những cánh hoa tươi bỗng xuất hiện và rơi xuống từ
giữa không trung. Và không lâu sau đó, mọi người đều nhìn thấy giữa 
không trung xuất hiện cùng lúc 3 mặt trời chói lọi, với một vầng sáng 
bảy màu bao quanh mặt trời ở giữa. Hiện tượng này không chỉ được nhìn 
thấy bởi những người trong vùng, mà tất cả những người dân ở miền đông 
Tây Tạng đều xác nhận là họ cũng nhìn thấy.    
Khi ông Dưndrub và bà Loga tìm đến đại sư Amdo Palden để xin ngài ban 
một tên gọi cho đứa con trai mới ra đời, theo như tập quán của người dân
Tây Tạng, ngài bảo họ rằng đây là một đứa bé rất đặc biệt nên một vị 
trụ trì tầm thường như ngài không nên đặt tên cho nó. Ngài nói rằng, 
phải là một bậc thầy vĩ đại như vị Tai Situpa mới có thể đặt tên cho đứa
trẻ này, và vì thế họ nên chờ đợi cho đến lúc điều đó có thể được thực 
hiện.
Nhưng dù sao cũng cần có một tên gọi tạm thời cho đứa bé, nên cha mẹ 
ngài liền sử dụng tên gọi mà người chị của ngài bảo rằng đã nhận được từ
một người bên bờ sông ngay sau khi ngài vừa được sinh ra. Tên gọi ấy là
Apo Gaga, trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là “đứa em trai mang lại niềm 
vui”.
Từ khi còn rất nhỏ, Apo Gaga đã tỏ ra vô cùng đặc biệt, với những năng 
lực và dự cảm phi thường. Chẳng hạn, ngài có thể nói chính xác cho mọi 
người biết chỗ để tìm kiếm những con cừu hay gia súc bị lạc mất. Điều 
tất nhiên là khi tin đồn này loan ra, tu viện Kampagar nơi cha mẹ ngài 
đang sống liền đề nghị cha mẹ ngài cho ngài đến tu viện để được nuôi 
dưỡng và đào tạo theo phương thức đặc biệt nhằm có thể trở thành một vị 
Lạt-ma mang lại hạnh phúc và lợi ích cho nhiều người. Nhưng vào lúc đó, 
đại sư Amdo Palden nhắc lại lời hứa trước đây của cha mẹ ngài, và nhận 
đưa ngài về tu viện Kalek để ông tự tay chăm sóc và nuôi dạy. 
Tu viện Kalek nằm cách xa nơi gia đình ngài đang ở nên có phần bất tiện,
nhưng cha mẹ ngài vẫn nhớ lời đã hứa và đồng ý gửi ngài cho đại sư Amdo
Palden. Dù vậy, để yên lòng hơn họ liền tìm đến một vị tiên tri rất 
giỏi trong vùng và hỏi về tương lai đứa bé. Vị này nhìn thấy một vỏ ốc 
lớn màu trắng với vòng xoáy theo chiều kim đồng hồ, và dự báo rằng Apo 
Gaga sẽ là người mang đến lợi ích lớn lao cho rất nhiều người, nhưng 
tương lai của đứa bé chưa thể biết rõ trước lúc 8 tuổi. Cách tính tuổi 
của người dân Tây Tạng cũng tương tự như cách tính theo âm lịch của 
người Việt Nam, nên năm dự báo của vị tiên tri này là năm 1992.
Em bé Apo Gaga trải qua khoảng 4 năm được dạy dỗ đặc biệt ở tu viện 
Kalek, với sự dẫn dắt của một vị Lạt-ma tái sinh chưa được biết đến. 
Ngài có một cái ngai nhỏ trang trọng ở bên cạnh điện thờ chính để ngồi 
và một người hầu lúc nào cũng ở bên cạnh để giúp ngài trong mọi việc. 
Ngài không được phép tham gia các trò chơi đùa thông thường như những 
đứa trẻ khác, và tất cả bọn chúng lúc nào cũng bày tỏ sự kính trọng đối 
với ngài. 
Thỉnh thoảng ngài có đến thăm gia đình ở nơi làng du mục đang sống. 
Những lúc này, cha ngài kể lại rằng ngài thường chơi đùa bằng cách xây 
lên những tu viện tí hon với đất và đá, hoặc tự làm một cái ngai nhỏ rồi
ngồi lên đó và đọc những lời cầu nguyện. Họ cũng kể rằng ngài thường 
cưỡi trên lưng những con thú chạy lên đồi, và thường khóc khi thấy chúng
bị đánh đập hay giết hại. Ngài luôn biểu lộ lòng từ bi, thương yêu tất 
cả. Ngài tỏ ra đặc biệt quan tâm đến cây cối, thường xuyên trồng và chăm
sóc những cây xanh. Ngài cũng bày tỏ sự không hài lòng khi nhìn thấy có
ai chặt phá cây cối. Những dòng suối nhỏ thường xuất hiện ở những nơi 
ngài trồng xuống nhiều cụm cây xanh.
Vào năm 1992, ngài bỗng nhiên thúc giục cha mẹ phải dời đến đồng cỏ mùa 
hè sớm hơn một tháng so với dự tính, nhưng không giải thích lý do. Mặc 
dù không hiểu vì sao, nhưng cha mẹ ngài vẫn nghe lời và dời trại sớm 
hơn. Chính điều này đã giúp họ đến đúng vị trí dự báo trong di thư của 
đức Karmapa đời thứ mười sáu, và đúng vào lúc phái đoàn tìm kiếm ngài 
cũng vừa đến đó. 
Apo Gaga đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để ra đi. Ngài sắp xếp gọn gàng 
một số đồ vật, hành lý ngay trước khi nhóm đi trước của phái đoàn tìm 
kiếm ngài đến nơi. Ngài thức dậy sớm hơn vào hôm đó và xếp gọn một số 
quần áo rồi đặt lên lưng con dê của mình, một con dê đặc biệt không có 
sừng, và nói với mẹ rằng những tu sĩ của ngài đang đến, và ngài đã sẵn 
sàng để lên đường đi với họ về tu viện của mình. Ngài nói, nếu có thể 
được thì ngài sẽ mang theo một vài vật kỷ niệm của tu viện Kalek. Người 
anh của ngài là Yeshe Rabsal đang ở tại Kalek khi nhóm đi trước của phái
đoàn tìm kiếm ngài vừa đến. Họ gọi Yeshe Rabsal  từ trên đồi xuống để 
nói cho biết rằng những tu sĩ được phái từ Tsurphu đến hiện đã đến Katok
và đang trên đường đến Barkor để tìm kiếm hóa thân tái sinh của một vị 
Lạt-ma đặc biệt. Khi nghe được tin tức này, đức Karmapa trẻ tuổi đã cười
lớn và nhảy múa reo mừng.
Cha mẹ ngài đã dựng lên một căn lều đặc biệt để tiếp đón phái đoàn. Sau 
những nghi thức chào hỏi thông thường, các vị tu sĩ liền hỏi mẹ ngài 
những chi tiết về ngài và về những giấc mơ của bà hoặc của bất cứ thành 
viên nào khác trong gia đình. Cha mẹ ngài kể lại tất cả những chi tiết 
về sự ra đời của ngài, về những dấu hiệu đặc biệt, về giấc mơ có những 
con hạc trắng, những giấc mơ của cha ngài và anh ngài, về con chim đến 
hót trên nóc lều, về âm thanh kỳ diệu vọng xuống từ không trung, về 3 
mặt trời hiện ra... Thật ra, nhóm đi trước của đoàn tìm kiếm đã được 
nghe hầu hết những chi tiết này từ những người dân du mục khi họ dò hỏi 
trên đường tìm đến đây. Lạt-ma Domo thay mặt cho tu viện Tsurphu trao 
cho cha ngài một bản sao bức di thư của đức Karmapa đời thứ mười sáu và 
ông Dondrup ngay lập tức nhận hiểu được một cách chính xác về đứa con 
trai phi thường của mình. 
Sau một vài trao đổi ngắn, những vị tu sĩ cùng nhau tháp tùng đức 
Karmapa trẻ tuổi đến tu viện Kalek để chờ hai vị Akong Tulku Rinpoche và
Sherab Tarchin sẽ đến ngay trong vài ngày sau đó. 
Không bao lâu, hai vị này đã đến. Và tin tức về sự phát hiện này liền 
được gửi về cho Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đang ở Ấn Độ. Hai vị ngay 
lập tức thông báo việc này lên đức Đạt-lai Lạt-ma. Tại tu viện Kalek, 
khi những chi tiết về hóa thân tái sinh của đức Karmapa một lần nữa được
khẳng định, hai vị Akong Rinpoche và Sherab Tarchin liền dâng lên cậu 
bé Apo Gaga, nay đã trở thành đức Gyalwa Karmapa đời thứ mười bảy, bộ lễ
phục đặc biệt và những thánh vật thiêng liêng mà họ thay mặt hai vị Tai
Situpa và Goshir Gyaltsab mang đến từ Ấn Độ.
Một số phẩm vật và quà tặng đặc biệt được mang đến dâng lên cho cha mẹ 
đức Karmapa để bày tỏ lòng biết ơn của tất cả mọi người về việc họ đã 
sinh thành và nuôi dưỡng ngài. 
Mọi người cùng lưu lại Kalek một thời gian ngắn để trong khi chuẩn bị 
cho chuyến đi về Tsurphu. Hai vị Akong Rinpoche và Sherab Tarchin thay 
mặt cho Tai Situpa và Goshir Gyaltsab, và một phái đoàn khác cũng được 
cử đến từ Tsurphu. Sau đó, tất cả cùng tháp tùng đức Karmapa trên đường 
đến Tsurphu, nơi mà đức Karmapa đời thứ mười sáu đã rời đi trước đó 33 
năm. 
Trước khi đoàn người rời khỏi tu viện Kalek, giữa bầu trời đầy sương mù 
của hôm ấy bỗng nhiên xuất hiện 3 mặt trời chói lọi và hàng trăm người 
quanh đó đều có thể nhìn thấy rõ. Mặt trời ở giữa lớn hơn và có một 
quầng sáng bảy màu vây quanh, trong khi hai mặt trời bên cạnh nhỏ hơn và
có những cụm mây bao quanh. 
Ngày 15 tháng 6 năm 1992, đức Karmapa đến Tsurphu trong một khung cảnh 
vô cùng cảm động khi hàng ngàn người dân Tây Tạng vừa nghe tin đã nhanh 
chóng quy tụ về để đón mừng ngài. 
Sau khi xuống xe, đức Karmapa đi về tu viện trên một con ngựa trắng được
tô điểm xinh đẹp và nghiêm trang, với các vị tăng sĩ vây quanh mang 
những biểu ngữ lớn với lời chào mừng ngài, cùng với đầy đủ dàn lễ nhạc 
truyền thống. Đám đông đón rước ngài tháp tùng theo sau, nhiều người 
trong số đó cưỡi ngựa, tạo thành một quang cảnh vừa trang nghiêm vừa 
nhộn nhịp. 
Đức Karmapa tiến vào tu viện Tsurphu dưới một cây lọng vàng, nghi lễ chỉ
dành cho những bậc đại sư, và được chào đón bởi một đám đông đang chờ 
sẵn. Rời khỏi lưng ngựa, ngài được mời đến ngồi trên một vị trí dành sẵn
trước điện thờ chính. Các vũ công với trang phục “sư tử tuyết” thực 
hiện điệu múa sư tử cổ truyền chào đón ngài, và dâng “sữa sư tử” lên 
ngài. Một nhóm vũ công đeo mặt nạ tượng trưng cho các vị hộ pháp của 
dòng Karma Kagyu tiến đến chào ngài từng người một theo đúng nghi lễ như
đối với các bậc thánh xưa kia, bày tỏ lòng mong muốn cho cuộc sống của 
ngài sẽ được dài lâu và khỏe mạnh. 
Những buổi lễ chào mừng ngài tiếp tục kéo dài trong nhiều ngày sau đó và
người dân Tây Tạng thuộc đủ mọi thành phần vẫn tiếp tục kéo đến để bày 
tỏ sự vui mừng. Mỗi ngày, đức Karmapa đều thực hiện nghi lễ ban phước 
lành cho tất cả mọi người. 
Ngày 27 tháng 6 năm 1992, Chính phủ Trung Quốc chính thức công nhận ngài
là hóa thân tái sinh đời thứ 17 của đức Karmapa. Ngài trở thành vị 
Lạt-ma tái sinh đầu tiên được chính phủ Trung Quốc công nhận kể từ năm 
1959. Điều này gợi nhớ lại một sự thật là từ 8 thế kỷ qua, nhiều hóa 
thân tái sinh của đức Karmapa đã từng là đạo sư của các vị hoàng đế 
Trung Hoa.
Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đã được phép trở về Tây Tạng để tổ 
chức lễ đăng quang chính thức của đức Karmapa đời thứ mười bảy. Nhà cầm 
quyền cũng cho phép tổ chức một buổi lễ xuống tóc và đặt pháp danh cho 
ngài tại ngôi đền Jo-kang nổi tiếng ở Lhasa. Nơi đây có một pho tượng 
Phật Thích-ca do công chúa Văn Thành mang đến từ Trung Hoa khi bà trở 
thành hoàng hậu Tây Tạng vào thế kỷ 7. Tương truyền pho tượng này trước 
đó đã được mang từ Ấn Độ đến Trung Hoa, và nó đã được tạo ra ở Ấn Độ bởi
một nghệ sĩ tên là Visvakarman ngay trong thời đức Phật còn tại thế. 
Pho tượng miêu tả đức Phật vào năm ngài được 12 tuổi, và đã được chính 
đức Phật ban phước lành sau khi hoàn tất. Người ta tin rằng bất cứ ai 
được nhìn thấy pho tượng này đều sẽ được nhiều may mắn. 
Nhiều phái đoàn đại diện của các nhóm Phật giáo dòng Karma Kagyu từ các 
quốc gia trên thế giới đã chuẩn bị đến Tây Tạng để được tham gia buổi lễ
đăng quang của bậc thầy trước đây đã khai sáng cho họ, và họ đã nôn 
nóng chờ đợi sự tái sinh của ngài từ lâu. 
Theo đúng như dự báo trước đây của đại sư Chojur Lingpa, vị Tai Situpa 
Pema Dưnyư sẽ trở thành thầy dạy chính của đức Karmapa đời thứ mười bảy.
Dự báo này đã được đại sư Chojur Lingpa đưa ra từ trước đây gần một thế
kỷ, khi ngài nhìn thấy những linh ảnh về các hóa thân của Karmapa cho 
đến tận đời thứ hai mươi mốt. 
Vị Tai Situpa là người mà đức Karmapa đời thứ mười sáu đã giao lại bức 
di thư. Trong di thư cũng có nói đến việc ông sẽ là thầy dạy của vị 
Karmapa tái sinh. 
Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đến Tây Tạng vào ngày 12 tháng 7 
năm 1992. Họ đến ngay Tsurphu sau một đêm nghỉ lại thủ đô Lhasa và viếng
thăm tu viện của Pawo Rinpoche, thực hiện lễ ban phước cho hàng trăm 
tín đồ nhiệt thành. 
Tu viện Tsurphu được đức Karmapa Dsum Khyenpa thành lập từ năm 1190 và 
từ đó đến nay luôn là trụ sở chính cả tất cả các vị Karmapa. Vào thời 
điểm tiến hành cuộc Cách mạng Văn hóa thì Tsurphu có đến 900 tăng sĩ và 
bao gồm trong nó 4 tu viện với rất nhiều công trình xây dựng. Một trong 
bốn tu viện này là nơi ở của các vị Goshir Gyaltsab qua nhiều lần tái 
sinh từ xưa đến nay. Các vị Goshir Gyaltsab luôn là người thay mặt đức 
Karmapa để dẫn dắt tông phái trong thời gian chuyển tiếp giữa hai lần 
tái sinh. Trong tiếng Tây Tạng, “gyaltsab” có nghĩa là “người nhiếp 
chính, người thay quyền”. 
Vị đứng đầu tu viện Tsurphu lúc đó là Drupon Dechen Rinpoche, chính là 
bậc thầy ở Rumtek trước đây. Ông đã cùng với đức Karmapa đời thứ mười 
sáu rời Tây Tạng vào năm 1959, mang theo một số những xá-lợi và thánh 
vật từ Tsurphu đến Sikkim. Những xá-lợi và thánh vật này hiện đang được 
tôn trí tại Rumtek. Chính đức Karmapa đời thứ mười sáu đã khuyên ông trở
về Tsurphu để đôn đốc việc xây dựng lại tu viện này. Trong thực tế, 
Drupon Dechen Rinpoche đã phải nỗ lực kiến tạo lại tất cả từ những đống 
đổ nát trong những năm gần đây, nhờ vào sự ủng hộ nhiệt thành của rất 
nhiều người. 
Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa đức Karmapa đời thứ mười bảy và hai vị 
Rinpoche là một buổi tiếp xúc mang tính nghi thức truyền thống. Sau các 
nghi thức chào mừng bên ngoài điện thờ, hai vị được đưa đến để lễ bái 
đức Karmapa lần đầu tiên và dâng phẩm vật cúng dường lên ngài. Những 
ngày sau đó, sự tiếp xúc mới dần trở nên thân mật, cởi mở và vui vẻ vì 
không còn mang nặng hình thức lễ nghi. Những mối quan hệ thành tín, tôn 
kính và yêu thương lẫn nhau được phát triển một cách tự nhiên và mãnh 
liệt. Theo niềm tin của người Tây Tạng, ba vị là hóa thân của đức Bồ Tát
Quán Thế Âm (Avalokiteśvara), Bồ Tát Di-lặc (Maitreya) và Bồ Tát Kim 
Cang Thủ (Vajrapṇi) và đã từng gặp gỡ, giúp đỡ nhau trong công cuộc độ 
sinh từ nhiều thế kỷ qua. 
Cũng giống như Akong Rinpoche trong hơn một tháng qua, hai vị Tai Situpa
và Gyaltsab bắt đầu khám phá ra những mối quan hệ chuyển tiếp nổi bật 
trong tính cách của vị Karmapa đời thứ mười bảy với đức Karmapa trước 
đây. Ngài cũng biểu lộ sự tự tin, không sợ sệt, luôn vui tính và chân 
thành thương yêu với một tâm lượng từ bi vô hạn, không khác gì so với 
đức Karmapa trước đây.
Lễ xuống tóc của đức Karmapa được tổ chức tại ngôi đền thiêng Jo-kang ở 
Lhasa, vào sáng sớm ngày 2 tháng 8 năm 1992. Hai vị Tai Situpa và Goshir
Gyaltsab tiến hành các nghi lễ trước thánh tượng đức Phật Thích-ca, 
tượng trưng cho sự hiện hữu của đức Phật trong buổi lễ. Đây là lần thứ 
hai trong lịch sử một vị Karmapa nhận lễ xuống tóc tại ngôi đền này. 
Nhiều phẩm vật cúng dường được gửi đến dâng lên ngài, và có cả quà tặng 
từ đức Đạt-lai Lạt-ma: một lời cầu chúc trường thọ và khỏe mạnh, một tấm
khăn choàng đã được ngài ban phúc, và một tràng hạt của chính ngài. Các
đại diện của nhà cầm quyền tại Lhasa cũng có mặt trong buổi lễ.
Sau buổi lễ xuống tóc, đức Karmapa chính thức nhận một tên gọi mới đã 
được dự báo bởi đại sư Chogyur Dechen Lingpa là Pal Khyabdak Rangjung 
Urgyen Trinley Dorje.
Ngày 27 tháng 9 năm 1992, hơn 20.000 Phật tử từ khắp nơi đã tụ họp về 
Tsurphu để tham dự lễ đăng quang của đức Karmapa. Ngoài đại diện của các
trung tâm tu học thuộc truyền thống Karma Kagyu trên toàn thế giới, còn
có đại diện của tất cả các dòng phái Phật giáo khác tại Tây Tạng và đại
diện của các tôn giáo khác. Tuy nhiên, chiếm đa số trong những người 
tham dự là các Phật tử Tây Tạng, nhiều người đã phải vượt hàng nghìn cây
số để về đây. Nhiều vị tulku đã quy tụ về từ khắp các vùng thuộc Tây 
Tạng, Ấn Độ và quanh vùng Hy-mã-lạp. Đối với người dân Tây Tạng, việc 
được hiện diện tại buổi lễ này và có cơ hội nhìn thấy đức Karmapa có một
ý nghĩa cực kỳ to lớn. Từ trước năm 1959, điều này vốn đã là một truyền
thống lâu đời, và sự khao khát mong chờ của họ càng được nhân lên gấp 
bội vào thời điểm năm 1992, khi nhìn thấy hé ra một tia hy vọng mới cho 
tương lai Phật pháp của đất nước. Vì thế, trong dịp này vùng thung lũng 
Tolung bao quanh Tsurphu trở thành một bãi cắm trại khổng lồ nhộn nhịp 
đầy màu sắc. 
Sau lễ đăng quang của đức Karmapa, vào ngày 29 tháng 9 năm 1992, đức 
Karmapa Urgyen Trinley Dorje chủ trì một buổi lễ ban phúc cho hàng chục 
ngàn người. Buổi lễ kéo dài trong nhiều giờ, tuy có sự trợ giúp của hai 
vị Tai Situpa và Gyaltsab nhưng vị Karmapa chỉ mới 7 tuổi đã bộc lộ năng
lực siêu việt với giọng nói vang rền và tự tin trước một cử tọa hàng 
chục ngàn người. Mặc dù mọi hoạt động Phật sự của một đức Karmapa, hóa 
thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, đều được xem là quan trọng đối với người 
Tây Tạng, nhưng buổi lễ ban phúc này được xem như một khởi đầu tốt lành 
và hứa hẹn nhiều hoạt động tốt đẹp mà ngài chắc chắn sẽ làm vì mọi người
trong cương vị của một đức Karmapa. Nhiều điềm lành xuất hiện như để 
làm tăng thêm lòng tin và sự vui mừng của những người dự lễ. Bầu trời 
quang đãng với chỉ một vài cụm mây trôi lãng đãng, nhưng lại có tuyết 
rơi nhẹ như những bông hoa trắng đẹp rơi xuống từ không trung, và từng 
bầy chim đông đảo bỗng tụ về một cách khác thường trong ngày hôm ấy, bay
lượn thành những vòng tròn cao vút trên bầu trời xanh. Nhưng ấn tượng 
nhất đối với tất cả mọi người là một mống cầu vồng bảy màu vĩ đại bắc 
ngang qua cả bầu trời, hiện ra cao vút ở trên cả những bầy chim đang 
bay,
Sau khi chính thức nhận cương vị là một đức Karmapa, Urgyen Trinley 
Dorje bắt đầu giai đoạn học tập nghiêm túc với các vị thầy chính là Tai 
Situpa và Gyaltsabpa, cùng với sự giúp đỡ của Drupon Dechen Rinpoche, 
người đứng đầu tu viện Tsurphu. Ngài bắt đầu bộc lộ rõ khả năng của một 
vị Karmapa tái sinh trong việc học tập kinh điển. Ngài chỉ cần nghe qua 
một chủ đề hoặc đọc qua một bản kinh văn nào đó là có thể ngay lập tức 
nắm hiểu được. Đôi khi ngài còn tỏ ra thông thạo cả những vấn đề mà các 
vị thầy chưa hề đề cập đến. 
Ngài bộc lộ sự thông minh, nhạy bén và một trí nhớ phi thường. Mặc dù 
vậy, các vị thầy dạy vẫn yêu cầu ngài phải học qua tất cả các môn học, 
các phần giáo pháp truyền thống, giống như tất cả các vị Karmapa trước 
đây đã làm. Điều này nêu lên một tấm gương chuyên cần cho tất cả mọi 
người noi theo. Mặc dù vậy, đối với một người Phật tử bình thường, cho 
dù có nỗ lực hết sức và được sự chỉ dạy tận tâm của những bậc thầy vĩ 
đại thì cũng không thể nào hoàn tất được hết thảy những gì mà vị Karmapa
đã học, đơn giản chỉ vì đó là một khối lượng kiến thức quá nhiều!
Trong giai đoạn học tập đầu tiên, ngài được sự trợ giúp của hai vị thầy 
uyên bác và nhiều kinh nghiệm là Omdze Thubten Zangpo và Lama Lodro 
Sherab. Sau đó, Lama Lodro Sherab phải trở lại với tu viện Rumtek vì ở 
đó đang cần đến ông. Dưới sự hướng dẫn của Omdze Thubten Zangpo, ngài 
học tập những kỹ năng hành lễ và nghi thức truyền thống. Sau đó, ngài đã
vượt qua được kỳ thi Umdze. “Umdze” có nghĩa là “thông thạo về các lễ 
nghi”, và bao gồm rất nhiều phần nghi thức truyền thống khác nhau. Một 
học giả cư sĩ tên là Lodro cũng giúp đỡ ngài trong việc học. Đức Karmapa
đã khiến cho tất cả mọi người đều phải kinh ngạc khi ngài học thuộc 
lòng một phần nghi thức tán tụng dài hơn 100 trang chỉ với thời gian 
chưa đến một tháng, và mỗi ngày chỉ dành chưa đến một giờ cho việc học 
nghi thức này!
Khoảng năm 1995, đức Karmapa bắt đầu có những linh ảnh trong thiền định 
giúp ngài phát hiện được sự tái sinh của nhiều vị đại sư, trong đó có cả
những vị thầy nổi tiếng như Pawo Rinpoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche và 
Dabzang Rinpoche. 
Từ năm 1992 đến năm 1999, sự hiện diện của đức Karmapa đã mang lại niềm 
tin và sức mạnh cho đông đảo Phật tử Tây Tạng. Ngài chủ trì và thúc đẩy 
tiếp tục công việc xây dựng lại tu viện Tsurphu. Mặc dù trước đó, một số
công trình hư hỏng của tu viện đã được ngài Drupon Dechen Rinpoche khôi
phục, nhưng phải đến giai đoạn này thì việc trùng tu mới thực sự hoàn 
tất, với nhiều kiến trúc phức tạp nguyên sơ được khôi phục đầy đủ và 
nhiều công trình xây dựng mới được thêm vào để đáp ứng với sự phát triển
của tu viện.   
Ngày 28 tháng 12 năm 1999, đức Karmapa quyết định rời khỏi Tây Tạng vì 
tương lai phát triển của Phật pháp. Chỉ mấy ngày trước khi bước sang 
thiên niên kỷ mới, ngài cùng với một số ít các vị tùy tùng bí mật rời 
khỏi Tsurphu và tìm đường sang Ấn Độ. Ngày 5 tháng 1 năm 2000, ngài đến 
Dharamsala, Ấn Độ và lần đầu tiên yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma.
Đức Karmapa lưu trú tại Ấn Độ và sống gần Dharamsala. Ngài đã thực hiện 
một số chuyến đi tham bái các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ, và hằng 
năm đều chủ trì những buổi lễ truyền thống của dòng Karma Kagyu tại 
Bồ-đề Đạo tràng (Bodhgaya), nơi đức Phật thành đạo, và Lộc Uyển 
(Sarnath), nơi đức Phật lần đầu tiên chuyển pháp luân. Ngài cũng viếng 
thăm Ladakh (nơi định cư của người Tây Tạng ở miền nam Ấn Độ) và nhiều 
nơi khác trong vùng Hy-mã-lạp. 
Cuối năm 2001, ngài chủ trì một buổi lễ quan trọng của dòng Karma Kagyu,
với sự tham gia của đông đảo tăng sĩ  thuộc dòng phái này từ khắp nơi 
trên thế giới, cùng quy tụ về ngôi đền Mahabodhi ở Bồ-đề Đạo tràng 
(Bodhgaya), ngay bên dưới cây bồ-đề mà trước đây đức Thế Tôn đã thành 
đạo. Đây là một nghi lễ được tổ chức hằng năm của dòng Karma Kagyu.
Năm 2002, ngài nhận lời mời của Hội Phật giáo Đại Bồ-đề (Maha Bodhi 
Society) của Ấn Độ, đến viếng thăm Kolkata ở miền đông Ấn Độ, như một vị
thượng khách danh dự. 
Cùng với đức Đạt-lai Lạt-ma, ngài cũng tham gia một số hoạt động Phật sự
tại Sarnath ở miền bắc Ấn Độ, nơi đức Phật trước đây đã thuyết giảng 
giáo pháp lần đầu tiên. 
Hiện nay ngài đang có dự tính sẽ rời Dharamsala để đến tu viện Rumtek ở 
Sikkim, trụ sở chính của các vị Karmapa ở bên ngoài Tây Tạng do đức 
Karmapa đời thứ mười sáu lập ra.