Tưởng
tượng đêm hôm đó, một đêm không trăng sao, thầy trò Huệ Năng lén lút ôm
bọc y bát rời chùa, len lỏi giữa các rặng lau sậy, ra tận bờ sông… Khi
đại chúng biết ông đã được truyền y bát trốn về phương Nam thì có đến
vài trăm người đuổi theo để đoạt lại, trong đó có Thượng tọa Huệ Minh,
trước là một tướng quân, tánh tình thô bạo, dẫn đầu đi trước, đuổi kịp
Huệ Năng. Huệ Năng đặt y bát lên tảng đá rồi núp vào đám sậy nói lớn: “Y bát là vật làm tin, há dùng sức mà đoạt được sao?”. Huệ Minh đến, muốn lấy y bát mà chẳng nhúc nhích, bèn kêu: “Hành giả! Hành giả! Tôi đến vì Pháp, chẳng phải vì Y!”. Huệ Năng nói: “Ông
đã vì Pháp mà đến, thì nên dứt bặt trần duyên, chớ sanh một niệm. Tôi
sẽ vì ông mà thuyết”. Rồi nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đang
khi ấy cái gì là bổn lai diện mục của Thượng tọa Minh?” . Huệ Minh ngay đó đại ngộ. Thiệt
ra Huệ Minh có định lấy y bát chi đâu. Muốn lấy thì đâu có khó gì với
một ông tướng như vậy! Ngày nay còn dễ hơn nữa. Đầy dẫy ra đó. Mua đâu
chẳng có. Sư phụ Hoàng Nhẫn cũng đã căn dặn: Sau này dẹp cái vụ truyền y
bát hình thức đó đi cho đỡ rầy rà, tranh đoạt, giữa chốn thiền môn. Tâm
truyền tâm thôi. Thượng tọa Minh thực lòng khâm
phục Huệ Năng từ lâu, đã muốn được học pháp nghe pháp từ Huệ Năng,
giờ mới có dịp. Trong lúc rầm rập chân người, la ó vang trời, đèn đuốc
sáng choang đó, giữa sự căng thẳng sống chết chỉ mành treo chuông đó,
một câu nói “dứt bặt trần duyên, chớ sanh một niệm” của Huệ Năng đủ sức
lay chuyển tận gốc rễ con người Huệ Minh. Đó chính là lúc bổn lai
diện mục Huệ Minh có cơ hội để xuất hiện vằng vặc giữa trời quang! Huệ
Minh chỉ cần nghe một câu là đủ. Cũng như xưa Huệ Năng nghe “Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm” là đủ. Học kinh, kệ của Phật, một câu một chữ quý
biết bao. Thực ra câu nói “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác” chẳng qua là
một… minh họa, làm cho rõ nghĩa thêm mà thôi, và nhất là phù hợp với
hoàn cảnh căng thẳng đầy sát khí lúc đó. “Dứt bặt trần duyên, Chớ sanh một niệm”. Ấy chính là “vô niệm”. Con đường phát hiện và hành thâm của Lục tổ Huệ Năng. Từ đó mà thấy biết “gió không động – phướn không động”. Con đường trực chỉ chân tâm đó vậy. Tóm
lại, “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác” chỉ có nghĩa là không hai, là
bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…! “Đại
gia” Duy-ma-cật nhờ đã trang bị pháp môn Bất nhị này đến tận răng mà
thõng tay vào bất cứ chốn nào dù là thanh lâu, quán nhậu, karaoke ôm hay
động xì ke ma túy… Vào đến chốn nào thì chốn đó trở thành đạo tràng
trang nghiêm thanh tịnh. Còn ta lơ mơ “ngẫu hứng lý qua cầu” dễ lọt…xuống sông! Vô tâm Vô
tâm không phải là không có tâm. Vô tâm cũng không phải là vô cảm.
Mackeno. Có một chữ tượng hình rất hay trong chữ Hán: 木 là mộc. 目 là
mục. 心 là tâm. Khi mộc ghép với mục thì thành
tướng 相 . Tướng vô tội. Không sanh sự. Nói khác đi, khi trần (mộc=cây)
gặp căn (mục=mắt) thì chẳng có chuyện gì xảy ra! “Sắc thanh hương…” đụng “nhãn nhĩ tỷ…”
chả sao cả. Cận thấy kiểu cận, loạn thấy kiểu loạn, lão thấy kiểu lão.
Con người tội nghiệp. Nhãn thua loài cú. Nhĩ thua loài dơi. Tỷ thua loài
chó… Con ong cái kiến cũng có căn có trần riêng của nó! Vậy mà con
người cứ tưởng mình ngon nhất thế gian. Làm được cái kính thiên văn
đường kính rộng, nhìn lên bầu trời đã la hoảng khi thấy có hàng trăm
ngàn tỷ thiên hà, trong khi xưa kia tưởng chỉ có mỗi một mặt trời vĩ đại
của riêng ta thôi! Nay mai có kính thiên văn đường kính rộng hơn nữa
không biết chuyện gì sẽ xảy ra! Trở lại chuyện Tâm. Căn với trần mới là tướng. Ghép thêm chữ tâm ( 心) vào thì mới thành tưởng 想 .
Có tưởng là bắt đầu sinh sự. Tưởng vô vàn. Tưởng vô tận. Muốn thiên
đàng có thiên đàng. Muốn địa ngục có địa ngục. Cho nên tu là tu Tâm. “Nhất thiết duy tâm tạo”.
Tất cả là do tâm bày vẽ ra. Phật từ thời Hoa Nghiêm đã nói rõ như thế.
Hạnh phúc khổ đau từ đó. So sánh hơn thua, chém giết nhau từ đó. Tiếng
Việt ta còn hay hơn: Tướng và Tưởng, chỉ khác nhau có mỗi cái dấu sắc,
dấu hỏi… Mà đã ngàn trùng cách xa! Vô tâm thì vô
sự. Vô sự thì bình an. Bình an vô sự. Người ta chúc nhau như vậy. Người
ta lại chúc nhau “Vạn sự như ý!”. Ý dẫn các pháp. Muốn “vạn sự” được
“như ý” đâu có khó gì. Một đám du khách hỏi anh nông dân: Hôm nay thời
tiết ở đây thế nào anh? Hôm nay có thứ thời tiết mà tôi thích! Làm sao
anh biết là có thứ thời tiết mà anh thích? Phải học, thưa ông. Không
phải lúc nào tôi cũng có cái tôi muốn nên tôi phải biết muốn cái tôi có. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Trần Nhân Tông). Độc cư Rốt
cuộc một mình. Một mình thôi. “Trời cao đất rộng, một mình tôi đi,
một mình tôi đi… Đời như vô tận. một mình tôi về, một mình tôi về… với
tôi!” (Trịnh Công Sơn). Phải. Một mình đi. Một mình về. Cao rộng thế
nào, vô lượng vô biên đến đâu thì cũng một mình thôi. Lạ, cái con người.
Luôn thèm có nhau. Quây quần. Đàn đúm. Rồi kêu ca nào ái biệt ly nào
oán tắng hội! Ai biểu. Sao chẳng “độc cư” đi? Cô
đơn có vẻ là nỗi khổ lớn nhất của kiếp người. Đặc biệt ở tuổi già. Mà
tuổi trẻ cũng vậy thôi. Cái lỗi ở chỗ không biết sống “độc cư”. Ngay cả
khi có một mình, con người sống cô độc mà cũng chẳng “độc cư”. Người già
quay quắt với dĩ vãng tiếc nhớ buồn thương… Người trẻ chẳng rời được
cái laptop, ear phone, di động… Dù đang trên núi cao hay giữa vực sâu
họ cũng bị quấn quít chằng chịt ngày đêm. Cứ tưởng
độc cư là một mình ăn, một mình thở, một mình đi, một mình về… nhưng
không. “Độc cư” không phải độc cư nên mới gọi là độc cư! Một
hôm có kẻ đệ tử nổi tiếng sống “độc cư”, một mình đi khất thực, một
mình về ngồi ăn… Phật kêu bảo, đáng khen, đáng khen, nhưng độc cư không
phải vậy, không phải chỉ vậy. Đó không phải độc cư thật. Ở một mình, ăn
một mình, đi một mình, ngủ một mình mà đầu óc quẩn quanh biết bao hình
bóng, biết bao câu chuyện, nhớ tiếc dĩ vãng, mơ tưởng tương lai thì
không thật độc cư! Dĩ vãng qua rồi. Quấn quít với nó mãi thì gánh nặng
đeo mang bao giờ đặt xuống? Tương lai chưa tới, Que sera sera. Biết
ra sao ngày sau. Chuyện ngày mai của ngày mai. That will be will be.
Tướng như vậy, tánh như vậy… bổn mạt cứu cánh nó như vậy… Vậy phải chăng an trú trong hiện tại, sống “hiện sinh” xả láng? Hiện sinh kiểu đó cũng chẳng phải hiện sinh chút nào! Độc
cư không chỉ rời xa dĩ vãng, không đắm đuối tương lai mà hiện tại
cũng phải nhìn bằng con mắt khác. Mắt tuệ: vô thường, khổ, không, duyên
sinh, vô ngã… Độc cư và thiền định không hai. Độc
cư thứ thiệt thì nghe ngóng được vận hành của Như Lai trong từng sát
na, là sống với Như Lai, sống cùng Như Lai, sống như lai. Và như vậy, người ta có thể “độc cư” ở bất cứ đâu, giữa chợ đời, trong gia đình, dưới gốc cây, nơi rừng thẳm… Cho nên càng sớm “độc cư” thì càng không cảm thấy cô đơn… “Đừng theo dấu quá khứ Hay khát vọng tương lai Còn hiện tại thì sao? Thì “Dùng tuệ giác soi chiếu”! vậy. “Du ư Ta-bà”… Bồ-tát
“rong chơi” trong cõi Ta-bà ấy là nhờ có “Du hí thần thông!”. Cứ bay
vèo vèo coi chỗ nào chúng sanh cần gì, kêu ca gì thì ra tay cứu độ. Các
nhà khoa học hiện vẫn loay hoay tìm kiếm coi có thứ gì có vận tốc nhanh
hơn vận tốc ánh sáng không, nếu có thì sẽ có những thay đổi lớn, không
còn thời gian không gian, không còn hạt còn sóng… Thực ra thứ đó đã có
từ lâu. Đó là tâm. Tốc độ tâm. “Tâm hành”. Vô lượng vô biên A- tăng-tỳ
kiếp… Không nắm bắt được. Bất khả đắc. Cho nên làm thế nào để hàng phục,
làm thế nào để an trụ tâm vẫn ngàn đời là một câu hỏi lớn. Nhờ
nương theo cái tâm rộng lớn “không ngằn mé” đó mà Bồ-tát “du ư” cõi
Ta-bà. Bất cứ chỗ nào và bất cứ ở đâu cũng có thể xuất hiện một ông Bụt
dễ thương: Sao con khóc? Con cần gì ta giúp cho? Vấn
đề ở đây là tại sao “du hí thần thông?”. Đã “du” sao còn “hí?”. Rong
chơi chưa đủ vui sao mà còn cười cợt, đùa giỡn, hí lộng…? Nhưng hãy cảm
thông cho Bồ-tát. Ấy chẳng qua thấy nhiều chuyện “nực cười” quá
không nín được. Có vị cười ha hả, cười hết ga, có vị cười tủm tỉm, có
vị cười âm thầm. Không cười sao được khi lúng túng chẳng biết giúp bên
nào giữa hai đội bóng: người đá phạt đền thì xin phò hộ cho đá vô,
người giữ gôn thì xin phò hộ cho đá ra. Không cười sao được khi thấy oán
oán chồng chất, giết hại lẫn nhau không thương tiếc rồi lập đàn
xin xá tội, giải oan; không cười sao được khi thấy người ta nhét tiền
vào tay mình để mong mau làm giàu, mau thăng quan tiến chức…! Cười mà
thương chứ chẳng phải ghét bỏ, coi thường chi đâu. Cho nên mới có
Thường Bất Khinh, mới có Quan Thế Âm…? Bồ-tát vì
“bất tận hữu vi, bất trụ vô vi” nên cứ phải bay qua nhảy lại giữa bờ mê
bến giác, nhưng nhờ con mắt tuệ đã có thể thong dong mà nhìn rõ tánh
tướng nhân quả các thứ… Từ đó mà có Từ có Bi. Nhưng
để có thể “du hí thần thông” như vậy Bồ- tát phải tu tập tinh cần để
đạt được những “đà-la-ni”, tức những năng lực đặc biệt: chẳng hạn sao
cho nhất thiết chúng sanh hỷ kiến (ai thấy cũng vui) – nhờ trung thực,
chân thành – sao cho hiện nhất thiết sắc thân (để hòa nhập với tất cả
mọi người, mọi lúc, mọi nơi) – nhờ khả năng thấu cảm – và sao cho giải
nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn để truyền thông hiệu quả bằng mọi thứ
phương tiện, kể cả sự lặng thinh. Dĩ nhiên trên hết phải có sự tôn
trọng. Nhờ có những đà-la-ni, những “tam muội” thần thông đó mà Bồ-tát
mới rong chơi vô ngại trong cõi ta-bà… Mới làm cho ta-bà thành cõi Tịnh Độ vậy. Từ Ngộ đến Nhập Bản hoài của chư Phật xưa nay là “Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”. Khai
là mở ra, khui ra, bày ra. Mở ra để làm gì? Để cho thấy (Thị). Thấy để
làm gì? Để giật mình (Ngộ), để tỉnh ra, ờ há, vậy hả? Và cuối cùng là để
Nhập. Nhập vào đâu? Vào tri kiến Phật, vào thấy biết của Phật. “Thấy
biết” của Phật thì… có gì hay? Có đó. Không cần kính viễn vọng để thấy
trăm ngàn tỷ thiên hà trên bầu trời, không cần kính hiển vi để thấy trăm
ngàn tỷ tế bào trong cơ thể, ngay từ cái khảy móng tay đã thấy ngay nếu
tán nhuyễn mỗi hạt cát sông Hằng thành một con sông Hằng, rồi nghiền
vụn từng hạt cát sông Hằng mới này thành vô số vi trần thì mỗi vi trần
sẽ là một vũ trụ…; chỉ cần trợn con mắt giữa chặn lông mày lên đủ chiếu
rọi khắp tam thiên đại thiên nheo nhóc hân hoan sáu tầng bay nhảy, vô số
chư Phật, Bồ-tát khản cổ giảng Tứ đế, Nhân duyên, Bát- nhã, Pháp Hoa…
còn Như Lai im hơi lặng tiếng trong thực tướng vô tướng của mình! Ấy là
nhờ tốc độ tâm, nhờ ngũ nhãn, nhờ prajna, bất nhị… Cho nên Sen thì vừa nhập vào bùn vừa nhập vào Như Lai… Bồ-tát thì vừa nhập hữu vi vừa nhập vô vi, yết đế yết đế… Khai
đã là khó. Vì đó là “kho tàng bí mật” của Như Lai, là Như Lai “tạng”,
là “bào thai” Như Lai, đâu dễ mà thấy biết. Phật cũng đã thử mở toang
ra ở buổi Hoa Nghiêm mà chẳng mấy ai thấy, chẳng mấy ai tin. Vì thế mà
phải dùng truyền thông “đa phương tiện”, tùy cơ ứng biến. Nhưng Khai
rồi, Thị rồi mà Ngộ cũng không phải dễ! Nhập lại càng khó hơn. Huệ Năng
lục tổ ngộ trong nháy mắt, với chỉ một câu kinh nghe được tình cờ nhưng
cũng mất mười lăm năm lăn lộn giang hồ mới “Nhập” được! Trong hội Pháp
Hoa, biết sắp “Niết- bàn” Phật bèn nói toạc: “Ai cũng sẽ thành Phật”.
“Rất dễ”. “Rất mau”. Nhiều kẻ không tin, nhiều người trách cứ. Thế
nhưng, Phật không dối. Ai cũng là Phật bởi ai cũng sẵn hạt giống đó
rồi, vấn đề là tưới tẩm chăm bón. Rất dễ rất mau là tùy thổ ngơi, tùy
công sức nhẫn nhục tinh cần. Tâm vô lượng, nên “thổ ngơi” vô lượng. Kẻ
chậm người mau. Một khi “nhất tâm bất loạn” thì niệm niệm chẳng sinh,
một hơi thở vào ra, một tiếng nam-mô đều đã đủ, đều tuyệt diệu. Còn chỗ
đâu cho sanh tử luân hồi nọ kia? Cho nên từ đầu đến cuối đâu có sai biệt
chút nào. Không Bát-nhã làm sao thấy hết chân không diệu hữu, làm sao
thấy hết duyên sanh? Không Khổ tập diệt đạo làm sao có chánh định để
thấy Vô ngã, biết Như Lai?… Cuộc hành trình khởi đi từ bố thí trì giới
nhẫn nhục… là không thể thiếu. Cho nên có Văn Thù tri – kẻ dẫn truyện
gần xa – thì có Phổ Hiền hành – người “vác ngà voi” không mệt mỏi! Trong đầm gì đẹp bằng sen. Bởi sen “nhập” vào cả hai phía: Bùn và Như Lai. Bùn và Như Lai vốn “bất nhị”. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn! Đỗ Hồng Ngọc (Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 146)
|