Đó là ngôi chùa Keo với quy mô trên 100 gian, uy nghi, cổ kính nằm soi bóng bên hồ bán
nguyệt ở làng Hành Thiện, xã Nam Hồng, huyện Xuân Trường (tỉnh Nam Định).
Ngôi chùa được xây dựng từ năm 1062, đến nay đã gần
1.000 năm tuổi, nhưng cũng bằng ấy thời gian, ngôi chùa này chưa có vị
hòa thượng nào đến ở. Điều đặc biệt này cũng làm cho dân gian thêu dệt
biết bao huyền sử về một lời nguyền...
Truyền thuyết hư
ảo
Một ngôi chùa cổ kính nhưng không có một bóng sư sãi, chỉ
có những gia đình ở đây lập thành bản tự thay nhau cắt cử trông coi,
nhang đèn và hướng dẫn du khách
tới chùa tham quan, làm lễ cầu cho Quốc thái, dân an.
|
Toàn cảnh ngôi chùa không sư sãi. |
Cụ Nguyễn Thị Cháu là người trong làng,
tuy 85 tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn, cho
biết: “Tôi đã 40 năm “ăn mày cửa Phật”, ngày ngày ngồi đây vừa bán hàng
nước vừa kiêm luôn công việc hướng dẫn du khách tham quan, lễ phật và
cũng từ thời tôi biết đến nay, chưa thấy một vị sư sãi nào ở đây”.
Ông
Vũ Nguyên Giới, Phó ban quản lý khu di tích cho biết, hàng ngày chùa
luôn cửa đóng then cài, chỉ ngày lễ tết, sóc vọng thì mới có người
thường xuyên túc trực tại chùa. Theo ông Giới, chùa Keo Hành Thiện thờ
Đức thánh Thiền sư Không Lộ họ Dương, huý là Minh Nghiêm.
Tương truyền ngài đã sang thiền trúc ở Ấn Độ để cầu pháp Phật. Năm
1066, Thiền sư đã có công chữa khỏi bệnh cho vua và được phong là Quốc
sư. Ngài xuất thân từ gia đình làm nghề chài lưới, vì nặng khối tình
nhân thế nên bỏ đi theo đạo Phật.
Cũng theo truyền thuyết, con đường tu của Thiền sư cũng lắm gian nan.
Phong cách sư thoát tục, không vướng mắc vật chất tầm thường, ăn mặc cây
cỏ, tập trung cho việc thiền định.
Tương truyền sau khi đắc đạo,
Thiền sư có thể bay lên không trung, hoặc đi trên mặt nước; đi vào rừng
sâu, núi cao nếu cọp thấy cũng phải cúi đầu, rồng gặp cũng phải nép
phục. Sử sách ghi lại ngày 3 tháng 6 năm Hộ Trường Khánh thứ 10 (1094)
đời Lý Nhân Tông, Thiền sư viên tịch.
Có truyền thuyết cho rằng khi ấy môn đồ của Thiền sư đã làm lễ hoả
táng, thu xá lợi Phật, xây tháp thờ ở trước chùa. Nhưng cũng có một câu
chuyện khác khi viên tịch, ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, khi đắp áo
lên thì khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này còn được
lưu giữ trong hậu cung, quanh năm khóa kín cửa, không ai được thấy dung
nhan của ngài.
Cứ 12 năm một lần, những người trong bản tự của
làng lại cử ra một người hội chủ và bốn viên chấp sự để làm lễ trang
hoàng tượng Thánh. Những người này phải ăn chay, mặc quần áo mới, rước
thánh tượng từ cấm cung ra rồi dùng nước dừa pha tinh bưởi để tắm và tô
son lại cho tượng Thánh. Công việc này phải làm theo một nghi thức được
quy định rất nghiêm ngặt, những người chấp sự phải tuyệt đối giữ kín
những gì đã thấy trong khi trang hoàng tượng Thánh.
Cả làng đi tìm dẫn chứng minh oan
Có truyền thuyết kể
rằng khi Thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân chúng nơi đây không mấy
mặn mà khói nhang nên ngài nổi giận.
Trong một đêm mưa gió bão bùng, ngài đan không biết bao nhiêu rọ tre,
cho tất cả tượng Phật vào đó, rồi ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng
sang đất Thái Bình. Đến giữa sông, ngài ngoảnh mặt lại và nguyền rằng
sẽ không có vị sư nào đến ở ngôi chùa trên. Câu nói ấy cứ tồn tại theo
miệng nhân thế cho đến bây giờ...
Theo ông Giới, đã nhiều năm nay Ban quản lý khu di tích kết hợp với
những học giả để đi tìm lời giải của những lời đồn đại trên. “Từ việc
nghiên cứu tài liệu về lịch sử, phật học và truyền thống quê hương,
chúng tôi đã đưa ra nhiều luận điểm để giải thích vấn đề vì sao chùa Keo
không có sư sãi”, ông Giới nói.
Người dân địa phương cũng có nhiều luồng ý kiến khác nhau: “Có thể
do không quen
với thổ nhưỡng, chướng khí nên hòa thượng sinh ra ốm đau, bệnh tật, ở
lâu có sư viên tịch. Thế nên các sư đến lưu trú, hành đạo, tu đạo trong
chùa sẽ bị ốm, bệnh... hoặc phải bỏ đi”.
Tuy nhiên, ý kiến này có
vẻ không hợp lý vì ngôi chùa nằm trên vị trí đắc địa, “phong thủy” tốt,
được xây dựng trên thế đất hình mình con cá chép, lại gần nơi giao nhau
của 3 dòng sông Hồng, sông Thái Bình và sông Ninh Cơ. Cây cối ở đây
tươi tốt, sinh sôi nảy nở, con người khỏe mạnh, làng quê phát triển trù
phú nên không thể nói là nơi có nhiều chướng khí, không hợp với cơ địa
con người.
Cũng có quan điểm cho rằng do làng Hành Thiện là một vùng đất nhiều
quan lại và thầy đồ nho nên sư không ở được. Điều này cũng không đúng
bởi
dù đây là một vùng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, luôn là cái
nôi hiếu học, khoa cử của đất Thiên Trường thuở xưa, tuy nhiều người làm
quan nhưng vẫn có tâm hướng Phật qua những tấm bia còn ghi lại việc
công đức, trong những lần tu sửa chùa. Người địa phương cho biết các cụ
đồ nho vẫn tham gia vào việc cúng lễ hàng năm của chùa và không có việc
bài xích và mâu thuẫn với Phật giáo.
Ông Giới đưa ra một giả thiết khác, đó là thời kỳ nhà Lê (thứ kỷ 15 –
16), Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và là nền tảng để xây
dựng mọi thể chế chính trị và xã hội. Năm 1461 thời kỳ Lê Sơ, nhà nước
phong kiến ban hành sắc lệnh “chùa quán nào không có ngạch cũ thì không
được tự tiện làm mới”, ngăn cấm việc dựng
chùa, đúc chuông, tạc tượng mà đẩy mạnh xây dựng cung điện đền đài,
lăng mộ, văn miếu... mang nặng tư tưởng Nho giáo.
Muốn làm tăng
nhân, người ta phải thi nhiều cuộc thi tuyển chọn lựa, phải làu thông
kinh sử và tuổi tác trên 50 tuổi. “Những cấm đoán khi đó có thể khiến
cho người ta vận vào việc ngôi chùa không có sư trụ trì mà thêu dệt nên
những câu chuyện thần bí trên”, ông Giới dự đoán.
Giải oan lời nguyền chùa “sát sư”
Theo Đại đức Thích
Thạch Thuận hiện đang trụ trì tại chùa Xuân Bắc, trưởng ban trị sự phật
giáo huyện Xuân Trường và cũng là thầy chùa thường xuyên về làm lễ trong
những ngày diễn ra lễ hội ở chùa Keo: “Chùa Keo theo phái Đại thừa,
nghĩa là quảng bá rộng rãi trong dân chúng
về đức Phật, không quá nhấn mạnh đến đời sống xuất gia, cho rằng cư sĩ
tại gia cũng có thể đạt Niết - bàn với sự tế độ của chư Phật và chư Bồ
Tát. Mỗi chúng sinh đều mang tâm Phật và nhận ra điều đó là điều tuyệt
đối quan trọng. Vì vậy ở chùa Keo việc có hay không sư trụ trì cũng
không quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật, phổ độ chúng sinh.
Chùa Keo đã có hàng ngàn năm lịch sử, có những đặc trưng văn hóa và
đời sống. Ngay từ khi xây dựng chùa, đã có những quy định về việc xây
dựng một “Bản tự” - quy định trong làng xóm. Bản tự của chùa Keo quy
định cứ 5 hộ dân trong làng lập thành một nhóm thay phiên nhau trông
nom, quét dọn và hướng dẫn du khách tham quan, lễ Phật.
Những người này còn được gọi là thủ
từ, cứ sau nửa tháng lại đổi sang nhóm khác. Có lẽ đây chính là một
hình thức của “phép vua, lệ làng” từ ngàn đời nay đã tồn tại trên đất
này.
Anh Nguyễn Văn Thực đang trong phiên làm thủ từ cho biết:
“Gia đình tôi đã hàng chục đời kế tiếp nhau được phân công làm thủ từ ở
chùa Keo. Dù đi đâu nhưng những ngày đến phiên nhà mình thì bất cứ giá
nào cũng phải làm tốt nhiệm vụ làng giao. Trong trường hợp gia đình có
công việc phải nhờ người trong nhóm trông coi giúp”.
Còn theo ông Nguyễn Vũ Thịnh, Chủ tịch UBND xã Xuân Hồng, việc có sư
trụ trì hay không ở chùa Keo không có gì là bí ẩn khi đó là một phong
tục, tập quán lâu đời của địa phương. “Mới đây làng Hành Thiện tiếp tục
xây dựng thêm một ngôi chùa Đĩnh Lan bằng
sự đóng góp của các tăng ni, phật tử và con em địa phương thành đạt với
số tiền hàng chục tỷ đồng, cách vị trí chùa Keo không xa. Chùa Đĩnh Lan
cũng do người dân địa phương cắt cử người trông coi, quét dọn mà không
có vị sư, sãi nào ở”, vị Chủ tịch xã cho biết.
(Theo PL&TĐ),