Sự khác biệt về chính trị và ngôn ngữ cùng với sự bỏ bê về
kinh tế dẫn đến những phong trào chống lại miền Tây Pakistan
diễn ra rộng rãi, dẫn đến cuộc chiến tranh giải phóng Bangladesh vào năm 1971 và thành lập nên quốc
gia Bangladesh.
Ngày nay, Bangladesh
là một nước cộng hòa dân chủ vô thần.
Điều lạ lùng là, mặc dù Bangladesh là một đất nước có số
lượng tín đồ Hồi giáo áp đảo, Phật giáo giữ một vai trò không nhỏ trong lịch sử
và văn hóa của quốc gia. Xét trên toàn quốc, thì Phật giáo là tôn giáo lớn thứ
ba, và ở một số vùng, chẳng hạn như ở Chittagong, Phật tử chiếm một con số khá
ấn tượng, 12% dân số trong vùng.
Số lượng tín đồ Phật tử không phải là yếu tố khiến cho đạo
Phật trở nên quan trọng ở Bangladesh,
mà điều quan trọng chính là lịch sử của Phật giáo ở đấy. Khoảng cách từ Bồ Đề
Đạo Tràng đến Bengal không xa và khu vực này
đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển của Phật giáo. Các học giả Phật
giáo ở Bangladesh cho rằng, Đức Phật thuyết giảng tại Majjhimadesh của vương
quốc Ấn Độ, một vùng đất mở rộng đến thị trấn Kajangal, đó là thành phố của
Mahasal ở Bangladesh ngày nay. Họ tin rằng Đức Phật đã đến Kajangal và thuyết
giảng hai bài pháp cho tín đồ ở đấy. Tuy nhiên, không có bất kỳ một cứ liệu
lịch sử nào chứng minh rằng Đức Phật đã đến một vùng nào đó của Bangladesh
để thuyết giảng trong cuộc đời của Ngài.
Các học giả nghiên cứu
gần đây đã tìm thấy một trụ đá của vua A Dục tại Damrai, gần Dhaka, và họ đang
cố gắng tìm hiểu xem Phật giáo đã đến Bangladesh như thế nào. Hiện có một vài
khám phá khác, như là hai bản khắc chữ được tìm thấy ở Sanchi ghi lại những món
quà của hai người dân của Purnavardhan, từ đó suy đoán là Phật giáo có mặt ở
Bangladesh trước kỷ nguyên đầu của Tây lịch.
Dưới thời của Hoàng đế A Dục (304-232 TCN), Phật giáo được
phát triển vững vàng như là tôn giáo số một tại Bengal,
và Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển mạnh trong khu vực cho đến thế kỷ thứ XII.
Bengal trở thành thành lũy cuối cùng của Phật
giáo trong khi Ấn Độ giáo và Hồi giáo đang dần thống trị Tiểu lục địa.
Bangladesh
là một phần không thể tách rời của Vanga hoặc Bengal
cổ. Dựa trên hồ sơ bằng văn bản Pāli, ngài Vangisa, một trong những đệ tử lớn
nhất của Đức Phật đã được ca ngợi từ một phần của Tiểu lục địa này. Những bản
khắc về ngài Long Thọ có niên đại từ thế kỷ thứ III cho thấy rằng Phật giáo đã
được người dân thực hành ở Bangladesh dưới dạng những quy tắc của vua A Dục.
Cái tên Vanga đã được đề cập đến nơi những bản khắc trong một số trường hợp.
Vào thế kỷ thứ V, nhà chiêm bái người Trung Quốc, ngài
Pháp Hiển, đã đến thăm Tamralipti (phía Tây Bengal, Ấn Độ) và đã thấy 24 tu
viện Phật giáo. Đến thế kỷ thứ VII, ngài Huyền Trang đã đến thăm các vùng khác
nhau của Bengal. Tại Samatata (huyện Noakhali
của Bangladesh hiện nay), ngài đã thấy có 30 ngôi tự viện với hơn 2.000 Tăng
sĩ, và ở Karnasuvarna (Bắc Bengal) thì có 10 tu viện với 2.000 Tăng sĩ. Ngoài
ra, tại Tamralipti, ngài thấy có 10 tu viện với 1.000 Tăng sĩ. Tại
Pundravardhana (Mahastan, huyện Bogra trong hiện tại), ngài thấy có 20 ngôi tự
viện với 3.000 Tăng sĩ. Những khai quật khảo cổ tại Mainamati, huyện Comilla đã
phát hiện thấy tu viện Salvana, nơi lưu lại những tàn tích của tu viện lịch sử
Kanakastupa, nơi ngài Huyền Trang đã từng đến thăm.
Những sự thật này cũng được chứng thực bởi những lời
ghi
nhận khác nhau và được ghi lại bởi các nhà chiêm bái Trung Quốc khi đến
thăm Bengal trong những năm sau này. Một số tu viện đã trở
thành trường đại học nổi tiếng thế giới như Taxila, Udantapuri và
Vickramasila.
Từ năm 750 đến năm 1150, Phật giáo phát triển đến đỉnh cao
trong lịch sử của Bangladesh dưới sự bảo trợ của các vị vua thuộc triều đại
Pala, như vua Gopala, Dharmapala và Devapala. Họ là những Phật tử thuần thành
và dưới sự bảo trợ của họ, những tu viện nổi tiếng thế giới như ngôi đại tự
Somapura, tu viện Shalban, đại tự Paharpur, đại tự Vickrampuri, tu viện Pandit
đã được xây dựng tại Bangladesh.
Từ năm 1150 đến năm 1760, Phật giáo dần biến mất khỏi Bangladesh.
Sau sự suy thoái của các vị vua thuộc triều đại Pala, đội quân Ấn giáo đã đến
thống trị Bengal và đàn áp Phật giáo. Những
người Phật tử còn sống sót đã rút về khu vực Chittagong. Trong chưa đầy một thế kỷ sau,
các triều đại Sena đã bị tràn ngập bởi dòng thủy triều của Hồi giáo.
Với sự thành lập quyền lực ở Bengal,
những người Hồi giáo đã phá hủy nhiều tu viện. Họ đã sát hại rất nhiều tu sĩ
Phật giáo và thực hiện việc cải đạo có hiệu lực. Thậm chí ngày nay, một số
phòng cầu nguyện Hồi giáo ở Chittagong
vẫn được gọi là Buddher Mokkan (nghĩa là ngôi nhà hay đền thờ Phật giáo). Đây
được coi là ngôi chùa Phật giáo được thành lập theo các quy tắc của các vị vua
triều đại Pala. Ngày nay, Phật giáo có khoảng 1.000.000 tín đồ ở Bangladesh.
Vào tháng 9 năm 1760, Quân đội Đông Ấn Anh đã thiết lập
quyền lực của họ ở Bangladesh.
Chính sách tự do tôn giáo của người Anh cho phép các Phật tử, mặc dù số lượng
giảm nhiều, tự chấn hưng Phật giáo ở Bangladesh trên một nền tảng vững
chắc.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, kinh điển Phật giáo không có
sẵn ở Bangladesh.
Ngay cả tu sĩ Phật giáo và tu viện cũng có số lượng rất ít. Phật tử đã chịu ảnh
hưởng của Ấn Độ giáo và thực hiện nhiều nghi thức, nghi lễ khác nhau của Ấn Độ
giáo thay vì thực hiện theo nghi thức Phật giáo.
Trong khi đó, vương
quốc Chakma là một nhà nước phong kiến dưới sự thống
trị của chính phủ Anh và người trị vì nó là Hoàng hậu Kalindi (1830 - 1873). Bà
đã mời ngài Sangharaj Saramedha Mahasthavir từ Arakan, Miến Điện đến Bangladesh.
Năm 1864 ngài Sangharaj Saramedha đến Chittagong
và dẫn theo một phái đoàn Tăng sĩ được đào tạo đầy đủ để chuẩn bị cho việc
truyền giới pháp Tỳ-kheo cho những ai đã sẵn sàng.
Sau đó ngài trú tại tu
viện Pahartali Mahamuni ở Chittagong.
Trong thời gian diễn ra lễ hội Mahamuni Fair hàng năm, nhiều Phật tử tụ hội về
và trong dịp lành này, ngài đã truyền trao giới pháp Tỳ-kheo cho bảy vị tu sĩ ở
Chittagong tại Udaka-Ukkhepa.
Cũng trong thời gian này, Phật giáo Nguyên thủy đã được
chính thức thành lập tại Bangladesh.
Các vị vua cổ đại của Arakan đã tạo ra một tiền lệ là tôn vinh các vị Tăng nổi
tiếng, những người đã phục vụ cho lợi ích của tôn giáo, với các tên gọi và danh
hiệu thể hiện sự ưu việt của các vị ấy. Ngài Saramedha được chính phủ Anh vinh
danh với một danh hiệu cao quý. Đây là lý do tại sao ngài đã được biết đến rộng
rãi với danh xưng “Sangharaj” và những người cùng với ngài thành lập tổ chức
Phật giáo Nguyên thủy được gọi là “Sangharaj Nikaya”.
Khi sự cai trị của thực dân Anh kết thúc vào năm 1947, Bangladesh đã được gọi là Đông Pakistan. Năm 1959, một hiệp hội
Phật giáo có tên Parbatya Chattagram Bhikkhu Samiti (hay Chittagong Hill Tracts
Bhikkhu Association) được thành lập dưới sự lãnh đạo của ngài Aggavansa
Mahathero. Hiệp hội này đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật
giáo ở Chittagong.
Nhờ có tổ chức này mà số lượng các tu sĩ và tu viện Phật giáo đã được tăng lên
trong khu vực này. Hiện tại thì hiệp hội này vẫn còn phổ biến ở Chittagong và vẫn giữ vai
trò tương tự. Sự hồi sinh của hình thức ẩn tu trong rừng cũng được diễn ra
trong giai đoạn này.
Đến năm 1971, Đông Pakistan đã tách ra thành Bangladesh thông qua một cuộc chiến
tranh đẫm máu. Năm 1972, một ngôi chùa Phật giáo có tên là Dharmarajik Bouddha
Vihara đã được thành lập ở Dhaka, thủ đô của Bangladesh. Thêm vào đó, tu viện
Shakyamuni Buddhist cũng được thành lập ở Dhaka.
Hiện nay, có 4 ngôi chùa Phật giáo ở Dhaka.
Ngày nay, Bangladesh
được thừa nhận là một quốc gia tôn trọng sự hài hòa giữa các tôn giáo, mặc dù
một số vấn đề thỉnh thoảng được thêm vào lời xác nhận đó. Tuy nhiên, chính phủ
cho rằng, Bangladesh
có đủ lịch sử và truyền thống để làm cho nó thành một vùng đất của sự hài hòa
và giao lưu văn hóa.
Ví dụ tốt nhất về sự hòa hợp tôn giáo và giao lưu văn
hóa được tìm thấy nơi việc tổ chức lễ hội Pahela Baisakh (Ngày Năm mới Bangla).
Đây là dịp thu hút mọi người từ tất cả các tầng lớp xã hội, và cũng là ngày
mang màu sắc lễ hội nhiều hơn bất kỳ lễ hội tôn giáo của bất kỳ cộng đồng nào
trên thế giới.