Nhưng trong tuần trước, các nhà khoa học và học giả Phật giáo
đã cùng làm việc ở miền nam Ấn Độ để chứng minh
rằng hai thế giới này không chỉ có thể cùng tồn tại mà còn làm lợi ích cho
nhau.
Đây là lần thứ 26 của Hội nghị Tâm thức và Đời sống và lần đầu
tiên được tổ chức tại một tu viện với hàng ngàn tu sĩ Phật giáo vân tập về đây.
Đức Dalai Lama, nhà lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng đã chào đón các nhà khoa học hôm
thứ Sáu (25-1) và khai mạc các cuộc đối thoại kéo dài một tuần về khoa học và
tôn giáo.
Hội nghị là sự ngồi lại của khoa học và Phật giáo - Ảnh: New York Times
Đức Dalai Lama kể một câu chuyện trong bài phát biểu chào mừng
hội nghị. Câu chuyện có xuất xứ từ câu chuyện cá nhân của Đức Dalai Lama. Trong
quá trình đào tạo tách biệt với tư cách là một đứa trẻ ở Tây Tạng, có lần ngài đã
nhìn chăm chú vào bầu trời đêm bằng kính viễn vọng trên mái của cung điện
Potala. Ngài nhìn vào mặt trăng và nhận ra bóng tối và sự gồ ghề trên bề mặt của
nó mâu thuẫn với niềm tin Tây Tạng rằng nó được thắp sáng từ bên trong. Ngài đã
đem phát hiện của mình trình với gia sư.
"Khi tôi nói với gia sư về sự quan tâm của tôi trong
lĩnh vực khoa học, họ trả lời rằng điều đó rất có ý nghĩa. Tuy nhiên, dù chúng
ta quan tâm đến khoa học, điều đó không có nghĩa là chúng ta phải cống hiến tất
cả năng lượng của chúng ta cho nó. Tôi dành phần lớn thời gian để thiền định về
lòng từ bi, tình yêu và trí tuệ, đó là nguồn gốc của sự quan tâm của tôi trong
khoa học”.
Chính mối quan tâm này mà ngài đang cố gắng châm ngòi trong
tất cả các tu sĩ Tây Tạng bằng cách thêm bộ môn khoa học vào chương trình giảng
dạy.
"Trong nghiên cứu của Phật giáo về thực tại, theo truyền
thống chúng tôi sử dụng bốn nguyên tắc lý luận: sự phụ thuộc, chức năng, tính
chất và bằng chứng", Đức Dalai Lama, nói. Điều này không khác cách mà các
nhà khoa học tìm kiếm căn cứ. "Cả hai phương pháp có vẻ cùng hoạt động song
song".
Hàng ngàn tu sĩ của tu viện Mundgod đã được yêu cầu tham gia
các cuộc thảo luận với chủ đề Từ vật lý lượng tử đến khoa học thần kinh trong hội
trường tu viện Drepung Loseling.
Với sự nhấn mạnh vào việc rèn luyện tâm trí qua thiền định,
nhìn vào bên trong và liên tục đặt câu hỏi, các nhà sư trẻ trong các tu viện
đòi hỏi sự quan tâm cùng với phân tích và logic như với bất kỳ chương trình giảng
dạy khoa học nào. Có sự khác biệt nào không? Sự cô đơn. Ở Tây Tạng, trước đây
các nhà sư được cách ly khỏi thế giới bên ngoài để thực hành đức tin một cách
biệt lập.
Theo Rato Khen Rinpoche, trụ trì của Rato Drepung, một tu viện
Mundgod khác, "Vị trí của tu viện được bọc bởi sự cô lập về địa
lý".
Ngày nay, mọi thứ đã thay đổi. "Duy trì truyền thống đó
không phải là cách để hình thành các nhà sư của thế kỷ 21", vị Lama này giải
thích trong một cuộc phỏng vấn tại tu viện.
Rato Khen Rinpoche, người phương Tây đầu tiên được bổ nhiệm làm
trụ trì trong một tu viện Tây Tạng, đã trở thành một nhà sư ở tuổi ba mươi. Trước
khi chuyển sang Phật giáo, ông từng học tập và làm việc như một nhiếp ảnh gia.
Thế giới trần tục đã không ngăn cản ông trở thành một geshe
- tương đương với bằng tiến sĩ trong Phật giáo, trong đó yêu cầu thời gian nghiên
cứu lên đến hai mươi năm - và bây giờ ông là một trụ trì.
"Đưa khoa học đến với các nhà sư không có nghĩa là bẻ
cong hệ thống niềm tin", Lama nhấn mạnh, "chúng song song với nhau,
không có nỗ lực nào để làm hài hòa cả hai".
Trong hội nghị khoa học lần này, tu viện Rato đã sửa đổi sảnh
cầu nguyện thành một hội trường nơi có 40 tu sĩ đang phối hợp cùng với nhau để
chỉnh sửa một bản trích yếu khoa học và triết học Phật giáo Tây Tạng.
Các nhà sư là các học giả Tây Tạng đến từ tất cả các tu viện
đã theo một khóa học khoa học nhiều năm và bây giờ được Đức Dalai Lama yêu cầu biên
dịch tất cả những gì họ đã học được vào một cuốn sách cho các tu sĩ khác.
"Đây là những tu sĩ đã dành thời gian từ sáng sớm đến đêm khuya để ghi nhớ
các bản văn cổ, được các trưởng lão thông thái giảng dạy và tranh luận đến tận
đêm", Lama Rato nóì. "Họ phải đặt niềm tin của người Tây Tạng trong
nhiều thế kỷ đằng sau và áp dụng cùng một kỷ luật nghiêm ngặt mà họ có được trong
các nghiên cứu Phật giáo vào khoa học hiện đại".
Đây là sức mạnh tâm linh cần thiết cho tu sĩ hiện đại, Lama
nói: một khả năng kiến thức, sự cởi mở và tranh luận kèm theo niềm tin tuyệt đối
trong giáo pháp của Đức Phật.
Cuốn sách sẽ bao gồm triết học Phật giáo, lịch sử của khoa học
- từ phát hiện của Galileo về sự di chuyển của các hành tinh lý thuyết đến thuyết
tiến hóa của Darwin – thảo luận các chủ đề vật lý, sinh học và hóa học cơ bản.
Sau khi chỉnh sửa kết thúc, các nhà sư sẽ trở lại tu viện của mình và trở thành
những tu sĩ giảng viên Tây Tạng khoa học đầu tiên.
Các nhà khoa học từ lâu đã bị mê hoặc bởi tác động của việc
thực hành thiền định Phật giáo trên não bộ. Richard Davidson, giám đốc phòng
thí nghiệm Khoa học thần kinh Xúc cảm tại Đại học Wisconsin-Madison đã tiến
hành thí nghiệm trên một chục bộ não của các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng.
Thầy Matthieu Ricard - Người hạnh phúc nhất thế giới
Phát hiện của ông đã tạo ra một sự khuấy động trong giới
khoa học não với kết luận rằng sau khi thiền định trong hàng ngàn giờ, các nhà
sư đã làm thay đổi chức năng và cấu trúc não bộ của họ.
Là một phần trong nghiên cứu liên tục của mình, tiến sĩ
Davidson năm ngoái đã kết nối nhà sư người Pháp Matthieu Ricard với 256 bộ cảm
biến và yêu cầu thầy thiền định, quán niệm về lòng từ bi. Những hình ảnh quét não của thầy
cho thấy một mức độ bất thường của sóng gamma (hoạt động liên quan đến học tập,
ý thức và bộ nhớ), “mức độ chưa từng được báo cáo trước đây trong các tài liệu
khoa học thần kinh", nhà khoa học này cho biết.
Vỏ não trước bên trái cũng thấy hoạt động gia tăng, bằng chứng
của một năng lực "hạnh phúc" lớn hơn.
Vào Chủ nhật, chủ đề của cuộc thảo luận giữa các nhà khoa học
và học giả Phật giáo là bản chất của ý thức. Đức Dalai Lama đã hỏi các nhà khoa
học ý thức nằm ở nơi nào trong bộ não.
Các câu trả lời của các nhà khoa học khác biệt nhau một cách
mạnh mẽ.
Christof Koch, một nhà khoa học thần kinh thuộc trường đại học
California nổi tiếng với các công trình về ý thức, cho biết chúng ta có thể suy
đoán, nhưng cuối cùng chúng ta không biết nơi mà nó nằm trong bộ não, vị trí vật
lý của nó. Ông nói thêm rằng tất cả các loài động vật có vú đều có ý thức nhưng
thật không thể biết được vị trí của nó ở đâu (ví dụ hệ thống miễn dịch của
chúng ta có thể hoạt động mà không cần có ý thức).
Matthieu Ricard, nhà sư người Pháp, là một nhà khoa học di
truyền trước khi trở thành tu sĩ, quay sang phía giáo lý đạo Phật nhiều hơn so
với quá khứ khoa học của mình.
"Bằng cách tự xem xét một cách trung thực, với một trải
nghiệm thuần túy", người ta có thể đạt được một sự hiểu biết về ý thức, thầy
nói.
Ricard sau đó đã đề cập đến đề tài luân hồi và khả năng của
một số cá nhân có thể nhớ được đời quá khứ.
Arthur G. Zajonc, giáo sư vật lý danh dự tại Cao đẳng Amherst
bang Massachusetts, không xem mình là một Phật tử. Tuy nhiên, ông nói thêm:
"Tôi hành thiền và thông qua đó tin tưởng vào khả năng của sự luân hồi".
Những lợi ích của thiền định và thực hành quán chiếu không
nên chỉ được dành cho các nhà sư, Zajonc nói. Ông giải thích rằng thiền định và
quán chiếu có thể đóng góp cho giáo dục đại học ở bất kỳ trường đại học nào.