- Quan hệ với chính mình
- Quan hệ với tha nhân và với
xã hội
- Quan hệ với thiên nhiên vũ
trụ
- Quan hệ với lịch sử của
mình và của nhân loại.
Tuy nhiên, tùy theo căn trí và hoàn cảnh riêng của mỗi người có thể đặt nặng
quan hệ này mà xem nhẹ quan hệ kia và dứt khoát không tồn tại một ai có thể hiện
sinh một cách độc lập đối với ít nhất một trong bốn quan hệ nói trên.
Trách nhiệm cung cấp bồi
dưỡng cho con người các mối quan hệ đó thuộc về các tổ chức tôn giáo, các tổ
chức văn hóa giáo dục, các thức giả, các nhà khoa học, các bậc thiện tri thức.
Việc từng bước tu chỉnh cải thiện dần các mối quan hệ theo cái "biết"
ngày càng sâu rộng và chân thực hơn về chính mình cũng như về vũ trụ vạn vật sẽ
là nền tảng, mục đích và là nội dung của đạo lý sống.
Đối với
người học Phật, trên quan điểm tiếp cận với hiện đại thì Phật giáo được xem là "một
khoa học về tâm thức". Càng ngày
chúng ta càng kinh ngạc trước sự phong phú của những tương đồng giữa lời dạy của
đức Phật với những khám phá mới của nền vật lý hiện đại. Nhiều nhà tiên
phong về khoa học và triết học Tây phương đã nhận thức đến sự tương đồng này, họ
hăng say nghiên cứu và đối thoại giữa huyền học - khoa học tâm linh với các
ngành khoa học vật chất để có thể khởi kiện các tri kiến mới về vũ trụ và trách
nhiệm con người đối với vũ trụ, trong đó phải kể đến David Bohm.
Theo ông, vũ trụ và thế giới vật chất quanh ta lưu xuất từ một
thực tại tiềm ẩn sâu kín, luôn luôn vận động, gọi là "vận
động toàn thể" (holomouvement), tức là trạng thái chân thật của vạn hữu
trong vũ trụ mà Bohm gọi là chân như (that - which - is).
Mọi sự vật kể cả không gian, thời gian và vật chất là biểu lộ động của chân như.
Theo danh từ của Bohm thì chân như là "trật
tự ẩn tàng" (the implicate order) vốn là nguyên lý sáng tạo của mọi tồn tại.
Nó không thể là đối tượng của nhận thức thường nghiệm, vì nó phổ biến khắp vật
chất, là bản thể của vật chất. Nội dung của trật tự ẩn tàng là "cái toàn thể nằm trong cái riêng lẻ" hay thực tại là hình ảnh của
toàn vũ trụ được ẩn tàng trong từng đơn vị nhỏ nhất của bản thân nó.
Vì vậy đối với Bohm, sự sống (life) là được chứa trong trật tự ẩn tàng.
Có thể trong một số dạng của hiện tượng thì sự sống không xuất hiện rõ nét,
trong một số khác thì rõ ràng hơn.
David Bohm, nhà vật lý lý
thuyết kỳ tài nguyên là giáo sư quá cố Đại học Luân Đôn, quan niệm chân như cũng
là chân như lượng tử hay chân không lượng tử mang vô tận năng lượng, từ đó ông
quan niệm vũ trụ là một đại dương năng lượng đang vận hành trong dạng trật tự ẩn
tàng và vũ trụ vật chất quanh ta chỉ là một dạng của năng lượng đó khi bị kích
thích mà hiện khởi và thế giới hiện tượng chỉ là một trật tự dàn trải (exphicate
order), một thuật ngữ ông dùng. Theo ông, toàn thể khái niệm
về trật tự ẩn tàng là một cách thể để bàn về nguồn gốc của hình sắc lưu xuất từ
vô sắc qua trung gian tiến trình dàn trải. Vì vậy toàn thể vận động chính là sự nối tiếp liên tục giữa hai dạng
ẩn và hiện của sự vận động toàn thể mà vũ trụ là một phần của nó.
Hình như Bohm muốn nói đến lý
nhân duyên và triển khai hình thái của thuyết pháp giới duyên khởi trong triết
lý nhà Phật. Pháp giới duyên khởi bao hàm hai mặt: một là thể tánh (cảnh giới
của lý), mặt khác là thế giới hiện tượng (cảnh giới của tướng). Trong chiều kích
không gian, lý duyên khởi phát biểu về sự tương quan cái này có thì cái
kia có. Pháp giới duyên khởi là đỉnh cao của lý thuyết nhân quả, là một dạng
triết lý về toàn thể của tất cả hiện hữu. Trong chiều kích thời gian thì
biểu hiện trong chuỗi tương liên mười hai nhân duyên, 12 ràng buộc, 12 mắc xích
hay 12 yếu tố nối tiếp nhau trở đi, trở lại không ngừng nghỉ và theo diễn tiến
quay vòng, điểm đầu cũng là điểm cuối.
*
**
Theo Duy
Thức học nhìn nhận thì tâm là cội nguồn của tất cả hành động, nên lý nhân duyên
phải đặt trong tàng thức hay a-lại-da thức. Tàng thức là kho tàng chủng
tử, là thể, là tướng và dụng của Tâm về nhiễm (vọng) và tịnh (chân, bản thể) hòa
hợp, không phải là một mà cũng chẳng phải khác. Tàng thức là một thực thể căn
bản hình thành cơ cấu mọi hiện hữu, tức là thân thể, tâm thức và môi trường
chúng ta. Trong Kinh Lăng Già, Thiền sư Thích Thanh Từ có dịch một bài kệ đã
dùng biển cả dụ cho tàng thức được xem như là một trung tâm duy trì cơ cấu giả
lập của hiện hữu bao gồm cả chủ thể lẫn khách thể:
"Biển tàng thức thường trụ
Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các sóng thức
Ào ạt mà chuyển sinh"
Vì vậy khi
nói đến môi trường sống phải được quan niệm là
môi trường thiên nhiên mà cá nhân và xã hội thực hiện các hoạt động của cuộc
sống.
Với những cơ sở nêu trên đã
nói lên chức năng quan trọng mà Tàng thức trong vấn đề làm gia tăng dục vọng của
con người như là nguyên nhân của vấn đề môi trường đạo đức xã hội, của những ảnh
hưởng sản phẩm khoa học - kỹ thuật tác động lên tâm thức con người.
Trong triết học Duy Thức,
chủng tử là khái niệm nói về cội nguồn của tâm thức, nó vốn là vô thuỷ cho nên
trong dòng chảy tâm thức, mọi hiện tượng tâm lý sinh hay diệt đều nương tựa vào
hạt giống sẵn có (chủng tử bản hữu) trong Tàng thức. Vì vậy thế giới hiện thực
khách quan như không gian, thời gian, đất, nước, gió, lửa, phương vị, tâm thức
là những thành tố cơ bản kiến thiết nên sinh mệnh của các loài hữu tình và vô
tình. Tất cả những hạt giống trong tâm thức không có một thực
thể bất biến, mà tất cả đều lưu chuyển tương tục như những hạt nước trên một
dòng chảy mà thuật ngữ Phật học gọi là dòng bộc lưu. Theo các kinh luận Phật
học thì những hạt giống mới được gieo trồng vào tàng thức khi tâm thức đang giao
tiếp với hiện tại gọi là tân huân chủng tử, nhưng kỳ thực nó có hai mặt: mặt đã
có sẵn gọi là bản hữu, mặt được huân tập lại là sự vun đắp, tưới tẩm cái đã có
sẵn làm cho nó hiện hành tức là từ trong tàng thức nó biểu hiện ra bên ngoài sắc
thân.
Tân huân
chủng tử xem như hạt giống bắt đầu gieo từ sự chăm sóc vun đắp được gọi là huân
tập, huân tập để tạo thành một khí chất gọi là tập khí. Chẳng hạn khi mới đến chùa đảnh lễ
gọi là tân huân, rồi thường xuyên đến chùa gọi là huân tập, và rồi ý niệm lên
chùa lễ Phật thường xuyên trong sinh hoạt tu tập gọi là tập khí. Hiện
thân của tập khí chính là con người cả hai mặt tâm lý và vật lý, tư duy và hành
động, vật chất lẫn tinh thần, biệt nghiệp và cộng nghiệp, cá nhân và cộng đồng
xã hội.
Tổ hợp gồm tân huân, huân tập
và tập khí là một tiến trình của hoạt động tâm thức trong một con người tạo nên
nghiệp riêng (biệt nghiệp), vì vậy trong kinh văn có ghi lời dạy của đức Phật: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa
tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng từ đó con người được sinh ra, nghiệp là bằng hữu
của con người chính nó".
Mặt khác, môi trường thiên
nhiên và môi trường xã hội không thuộc về một cá thể riêng mà chung cho cộng
đồng, cho xã hội, nên chúng được hình thành bởi cộng nghiệp (nghiệp chung) và
cộng nghiệp không những là cho biết ý thức xã hội bên ngoài của một gia đình,
của một cộng đồng, một quốc gia mà còn cho biết cả ý thức bên trong của họ. Vì
vậy sự hiện hữu vừa mang tính cách riêng của nó nhưng cũng vừa mang tính chất
chung của toàn thể.
Nói cách
khác, tập khí hay thể cách sống của mỗi một cá nhân đều có thể phản ảnh cái thể
cách sống của mọi người trong cùng một xã hội, một thời đại vì cá nhân vừa là
sản phẩm của xã hội vừa là tư cách thành viên của cộng đồng. Điều này nghiệm đúng định đề
Duyên khởi:
"Khi cái này có mặt thì cái kia có mặt
Khi cái này không có mặt thì cái không có mặt
Khi cái này sinh khởi thì cái kia
sinh khởi
Khi cái này đoạn diệt thì cái kia đoạn diệt"
Từ quan điểm này, mối liên hệ
giữa cá nhân với tâm thức, giữa cá nhân với xã hội, giữa con người với thiên
nhiên, những mối quan hệ này là những phương tiện nhận thức về thế giới trong
Phật giáo.
*
**
·Tính duyên khởi của Tàng thức
Theo Duy thức tương ứng với 5 cơ quan cảm giác trong con người tương ứng với năm
thức gồm nhận thức, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức trong tâm thức, chẳng hạn
nhĩ thức nhận biết âm thanh và phân biệt với âm thanh khác. Tàng thức nhận
thức các chủng tử, môi trường và năm thức nói trên thông qua mạt na thức
(thức thứ 7). Đó là tính năng độc đáo riêng của nó để nhận
thức. Sự nhận thức được phản ánh qua các hành động
thân, khẩu và ý, chúng lại được in vào
Tàng thức bằng các hạt giống. Đây là tiến trình
Duyên khởi của Tàng thức và kết cục, khi ba nghiệp thân, khẩu và ý này biểu
đạt thì chính chúng trở thành các chủng tử biệt nghiệp mới được tích chứa vào
Tàng thức. Vòng phản hồi Tàng thức ở cá nhân được hình thành
tại đây. Khái niệm này cho thấy cộng nghiệp được lưu vào Tàng thức duy
trì được những mối liên hệ sinh động với cộng đồng, với xã hội và môi trường
thiên nhiên và chuyển đổi liên tục dẫn đến sự tích lũy các cộng nghiệp mới để
cuối cùng biểu lộ chính nó trở thành hiện tượng. Tóm lại, cả thế giới hiện thực khách quan với muôn vạn dị biệt đa
thù, lẫn các hiện tượng tâm lý như buồn vui, giận hờn, yêu thương đều là các
biểu hiện của Tàng thức.
Theo quan điểm của đạo Phật,
con người trước hết là biểu hiện từ Tàng thức bao gồm các nhân duyên: địa,
phong, thủy, hỏa, không, thời, phương, thức và xuất hiện như một tổng thể của
năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bản chất của con người là một tích hợp của
nhân duyên với dòng nghiệp thức. Dòng nghiệp ở đây chính là hạt giống, các tập khí, các tạo tác trong
sâu thẳm của tâm thức và là nguyên ủy cho vòng luân hồi sinh tử của một dòng
sinh mệnh.
Môi trường sống là không gian cho sự cộng sinh của muôn loài bao gồm cả con
người được điều phối nghiêm ngặt bởi nguyên lý Duyên khởi và tiến trình vòng
phản hồi của cộng nghiệp trong Tàng thức.
Cho đến
muôn thuở, nhân loại đã cải tạo biến đổi môi trường sống chỉ nhắm thẳng mục đích
đáp ứng dục vọng của con người. Nói cách khác những gì thuộc
bên trong con người như những dục vọng sẽ được biến hiện thành những thành tố
bên ngoài môi trường sống và chính sản phẩm của dục vọng này lại trở thành đối
tượng kích thích ngũ quan: sắc, thanh, hương, vị, và
xúc giác con người. Từ ban đầu, cộng nghiệp như là một tổng thể có qui mô nhỏ,
nhưng dần dà thông qua vòng phản hồi của Tàng thức, phóng đại tính cộng nghiệp theo biên độ rộng lớn trong cả cộng đồng.
Thực ra, ta
cần phân biệt giữa hai khái niệm dục vọng và khát vọng. Dục vọng về bản chất là một sức mạnh mù
quáng như một sự thèm khát đầy dẫy dằn vặt tâm trí, bị điều động bởi lòng ích
kỷ, nó chỉ nhằm thỏa mãn những toan tính vô hạn của cuộc sống tầm thường.
Dục vọng nhanh chóng biến chất để chuyển thành độc tố tham, sân, si của tâm ngay
khi nó trở nên gay gắt, ám ảnh hoặc chấp thủ không kiểm soát được. Trái lại, khát vọng nảy sinh từ tâm ý muốn biến mình thành người
tốt, phụng sự cho phúc lạc con người, hoặc vươn tới giác ngộ tâm linh.
· Sự chuyển hóa Tàng thức.
Như phần
trình bày trên, Tàng thức dung chứa các hạt giống vừa ô nhiễm vừa thanh tịnh, sự
chuyển hóa có mục đích làm tan biến, diệt tận các hạt nhân ô nhiễm, bất thiện,
trả lại bản tính thanh tịnh, chân thật của nó. Nói một cách cụ thể là giải
trừ các hạt giống tạp niệm trôi lăn trong diễn biến tâm
lý của chủ thể nhận thức kể cả các đối tượng được nhận thức.
Con người hiện hữu trong môi trường sống tương tác nhận thức của mình thông qua ngũ quan và được tổng hợp vào ý thức (thức thứ 6) và cũng
được nhận thức bởi Tàng thức (thức thứ 8). Hầu hết các biểu hiện của chủng tử được in vào Tàng thức thông qua
ngôn ngữ chẳng hạn giáo dục, đối thoại, diễn thuyết, báo chí, triển lãm.
v.v… là các chủng tử nghiệp thiện. Các chủng này lại
được lưu giữ thông qua vòng phản hồi của xã hội sẽ là cộng nghiệp tốt tác dụng
tốt trong tương lai.
- Mặt khác, bằng phẩm hạnh
nhẫn nhục, phát triển chánh niệm chịu đựng khó khăn, thực hành thiểu dục với
tinh thần tri túc, kiềm chế tham lam, không để tâm trí bị đầu độc, bị ám ảnh bởi
những xa hoa phù phiếm của vật chất, bởi những tham đắm quyền thế. Sau cùng,
quán về tính không của vạn hữu để nuôi dưỡng ý thức về mối quan hệ Duyên khởi
giữa tất cả các dạng thức sống, để nhận ra sự cộng tồn giữa con người và sinh
vật khác và từ đó con người trực nhận được sự bình đẳng giữa mình và chúng sinh
về mặt sinh mệnh nhưng vẫn dành cho con người một dạng sinh mệnh thông minh hơn
có quyền ưu tiên.
· Điều phải suy ngẫm
Dường như,
ngày nào sự phát triển khoa học và kỹ thuật còn phát triển mạnh, bí mật của
thiên nhiên không ngừng được khám phá, phơi bày trước mắt con người, thì nhân
loại càng trở nên cuồng vọng hơn.
Dưới ảnh hưởng tư tưởng duy vật luận của phương Tây, con người vẫn cho rằng vật
chất quyết định ý thức, vật chất trở thành mục tiêu cao cả, ưu tiên cho cuộc
sống, và vì thế con người dần dà bị vật chất hóa, không hay không biết tự lúc
nào. Con người vẫn mãi mê nhận thức rằng chỉ có điều kiện vật chất càng nhiều
thì hạnh phúc càng ổn định và vì thế dưới mục tiêu chung của phát triển kinh tế
thì lực lượng tiềm ẩn của con người đã được kích thích một cách mãnh liệt, trạng
thái tâm lý thay đổi, chao đảo không ngừng và dường như ý nghĩa kiếp người chỉ
được đo bằng con số trên tài sản của họ sau bao năm tháng bôn ba.
Xét từ quan
điểm của Phật học, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của đời người là không
khác nhau. Lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân cũng là
một thể. Vì vậy tư tưởng tìm kiếm lợi ích trước mắt để làm giàu không
nghĩ đến hành vi tức thời sẽ gây hậu quả đến mai sau là một điều quá
tai hại cho cộng đồng xã hội và rộng hơn là cho toàn
thể nhân lại. Đây chính là vấn nạn của môi trường sinh thái và
sâu xa hơn là vấn nạn của biến đổi khí hậu mà nhân loại đang đối mặt trong toàn
cầu như hiện nay.
Quan niệm của Phật giáo về sinh mệnh con người trong vũ trụ
xuất phát thông qua trực giác của đức Phật sau khi ngồi thiền định dưới cội
Bồ-đề và khám phá bản chất của vũ trụ, Ngài đã nhận ra rằng bản thân đời sống
không thể tách rời nguồn gốc của sinh mệnh muôn loài và vũ trụ mà nó được hình
thành trong đó. Ngài đã đặt tên là sinh mệnh cơ bản hay còn gọi là Pháp (dhamma).
Đức Phật đã thấy rõ sinh mệnh vũ trụ và tính bất nhị giữa Ngài và vũ trụ trong
từng sâu thẳm. Theo các luận cứ Phật học, Pháp không có hình dạng, nó là sinh mệnh
trong sinh mệnh. Thuật ngữ khác dùng thay cho Pháp
gọi là Như Lai.
Như Lai "là người đã đến như thế" danh hiệu chỉ một vị đã đến bậc giác ngộ
cao nhất, bậc Chánh đẳng chánh giác.
Đôi khi có nghĩa là biểu hiện cụ thể của Chân như, thể tính
của vũ trụ, được xem là gạch nối giữa hiện tượng và bản thể.
Như Lai trong nhiều trường hợp đồng nghĩa với trí huệ, với Không tánh.
Nói một cách khác, mọi thứ hiện hữu trong vũ trụ được
kết nối bằng luật Duyên khởi, một nguyên lý của tính tương đối mang bản chất
khoa học hiện đại. Tác dụng
của sinh mệnh vũ trụ là thực hiện những hành động trong mạng lưới phức tạp của
nhân quả. Quá trình vận hành của sự tiến hóa sinh mệnh và thế giới vật
chất làm xuất hiện dạng sinh mệnh thông minh gọi là con người. Trong Kinh Đại
Thừa có dạy: Trong vũ trụ bao la rộng lớn này tồn tại những dạng sinh mệnh thông
minh khác hoạt động xuyên suốt trong sự phát triển của nó. Đó chính là khái niệm:
"Quốc độ của Phật"ở quá khứ, hiện tại và vị lai trong mười phương.
Bởi vậy, con người phải nỗ lực thực hiện những hành động tương thích với nhận
thức cao hơn của mình. Nhìn trên qui mô địa cầu, hệ thống sinh thái, tiến
hóa chọn lọc, phát triển
theo cách sáng tạo và nhân loại là một thành viên trong
cộng đồng này. Con người là vốn quý, là bậc linh trưởng của vạn vật vì có tâm
thức có tự do chọn lựa, khác với động vật. Sung sướng, hạnh phúc, đau khổ và
phiền muộn đều là các cảm giác lưu xuất từ tâm cho nên phải có nhận thức sâu sắc
về tác dụng của tâm linh, và chính tâm linh chứ không có nhân tố nào khác là cội
nguồn ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự thay đổi của thế giới mà con
người đang sống. Chính đời sống, xã hội, thế giới của con người, do con người
muốn làm ra chứ không phải do một sự mặc khải nào cả.
SÁCH THAM KHẢO
1. Luận Câu xá: Thích Thiện Siêu - NXB Tôn
giáo 2006
2. Thành Duy Thức: Tuệ Sỹ (dịch và chú) -
NXB Phương Đông 2009
3. Triết học và khoa học Tây Phương - Pháp
Hiền - NXB Phương Đông 2010
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển Phật giáo: Chân
Nguyên, Nguyễn Tường Bách, Thích Nhuận Châu - NXB Thời Đại
2. Thành Duy Thức: Tuệ Sỹ dịch
NXB Phương Đông
3. Đai Thừa Tuyệt đối luận: Nguyệt Như Tâm
Viên, Đặng Hữu Trí dịch - NXB Thời Đại
4. Kim Cang: Thích Nhất Hạnh -
NXB Lá Bối
5. Max Planck: Nguyễn Xuân Xanh
- NXB Trí thức
6. Từ điển yêu thích bầu trời:
Trịnh Xuân Thuận - NXB Trí thức
Nguồn: Hoằng Pháp
33