Xã hội Đức Phật sinh ra dường như rất quan tâm và quý trọng cây cối.
Liên
hệ giữa con người và Thiên Nhiên thấm nhuần cả nền văn hoá, vì ai cũng
thấy rõ rằng mình hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường. Ở Ấn Độ cũng như
các nước theo đạo đa thần thời đó, các vị Thần là chân dung của các sức
mạnh Thiên Nhiên.
Không
còn gì để nghi ngờ sự kiện Đức Cồ Đàm (Gautama) là một nhân vật có thật
trong lịch sử, tuy nhiên, truyền thuyết về Ngài được kể đến hôm nay cho
thấy có nhiều yếu tố cổ đại đã len lỏi vào câu chuyện. Chúng ta có thể
nhận ra câu chuyện của Người Cây (Green Man), sinh ra từ Nữ Thần Đất. Là
sự biểu hiện của Thiên Nhiên, Người Cây sống hài hoà với thiên nhiên, ý
thức bảo vệ màu xanh của thiên nhiên. Sự ra hoa của Người Cây nuôi
dưỡng vạn loài.
Đây
là khía cạnh làm hấp dẫn thêm câu chuyện về cuộc đời của bậc đạo sư
khai sáng một tôn giáo có thể được gọi là từ bi nhất trong các tôn giáo
lớn trên thế giới.
Đản Sinh trong Rừng Sal (Sa-La)
Đức Bồ Tát đản sinh ở rừng Lumbini, ngoại thành
Kapilavatthu, tại xứ Nepal ngày nay. Ở đây rừng mọc chủ yếu là loại cây
Sal, có tên khoa học là Shorea robusta. (Đây là một loại cây phổ biến ở chân Hy Mã Lạp Sơn, được dùng để làm nhà và các vật dụng cần thiết của dân địa phương.)
Thân mẫu của Ngài, Hoàng Hậu Maya, khi ấy đang cùng
với đoàn tùy tùng đi về nhà cha mẹ để sinh con. Bà lại nghỉ dưới gốc
một cây Sal, cây liền nghiêng nhánh xuống cho bà vịn. Hoàng Hậu vừa vin
cây thì cậu bé Siddharta ra đời. Truyền thuyết kể rằng “Cậu bé đi bảy
bước về bốn hướng, và hoa sen nở ra dưới mỗi bước chân cậu. Cậu bé nói:
‘Ta không còn phải thọ sinh nữa, vì đây là thân chót của ta.’”
Hoa Sal (Shorea robusta)
Phật giáo Việt Nam thời kỳ sơ khởi, theo GS Lê Mạnh Thát, có thể gọi là thời kỳ Phật giáo Pháp Vân (đầu Công Nguyên,) xây dựng quanh truyền
thuyết Man Nương sinh con vào ngày mồng 8 tháng 4, gởi con trong bọng
cây Dâu. Sau này cây được tạc thành tượng Phật rất linh thiêng gọi là
Bụt Pháp Vân. Lễ rước tượng Bụt Pháp Vân hằng năm vẫn còn tiếp tục đến
bây giờ. (Chi tiết thú vị là đứa con Man Nương hạ sinh là bé gái. Một
dấu ấn của xã hội mẫu hệ?) Thời kỳ Phật giáo Pháp Vân cũng chính là thời
kỳ yếu tố ảnh tượng đang phát triển trong Phật giáo Ấn Độ. -- Trước đây
người ta chỉ dùng hoa sen, lá Bồ Đề để biểu trưng cho Phật, đến thế kỷ
thứ nhất tượng Phật mới ra đời. -- Phải chăng đây cũng chính là thời kỳ
các yếu tố truyền thuyết cổ đại của Ấn Độ (như chuyện Người Cây) đang
bắt đầu len lỏi đi vào câu chuyện Đản Sinh? Câu chuyện Man Nương là dấu
tích của sự hoà lẫn của đạo Phật với các yếu tố văn hoá của người Ấn và
người Việt cổ.
Có người gọi cây mà
đức Phật Đản sinh là cây Asokha hay Simsapa tức cây Vô Ưu không biết có
phải vì vua A Dục (Asokha) đã trồng cây này ở nơi đức Phật Đản sinh hay
không? Khi tra cứu, chúng tôi thấy cây Asokha hay Asoka – Vô Ưu -- tên
khoa học là Saraca indica, không xa lạ gì, chính là cây bông trang.
hoa Asoka (bông trang)
Nhập Niết Bàn trong rừng cây Sal
Đức
Phật đã chọn nằm xuống giữa hai cây Sal để nhập diệt. Truyền thuyết kể
rằng tuy lúc đó là ngày thứ 15 của tháng trăng tròn thứ Sáu theo lịch Ấn
Độ, hay tháng Visakha (khoảng giữa tháng Năm Dương Lịch hay rằm tháng
Tư Âm Lịch – theo Nam Tông) nhưng cây sal nở rộ hoa khi Ngài nhập diệt.
Đây dĩ nhiên có phần biểu tượng (ẩn dụ), nhưng một lần nữa cũng cho thấy
mối liên hệ kỳ diệu của Ngài với những cây Sa-La này. Thường cây Sal nở
hoa vào đầu mùa Xuân (tháng 3-4.) Lễ hội Sarhu hay Hội Hoa Sa-La vẫn
còn được nhiều sắc dân cao nguyên Chotanagpur tổ chức hằng năm.
Chúng
ta biết rằng các nước Phật giáo Nam Truyền kỷ niệm ngày Phật Đản, Thành
Đạo và Nhập Niết Bàn đều vào ngày rằm tháng Vesakha (khoảng giữa tháng 5
Dương Lịch.) Ngày lễ ấy gọi là Vesak, lấy từ tên của tháng Vesakha này.
Các nước Phật giáo Bắc truyền thì kỷ niệm Phật Đản vào ngày Rằm tháng
4, Phật Thành Đạo vào ngày Rằm tháng Chạp và Phật Nhập Niết Bàn vào ngày
Rằm Tháng 2 Âm Lịch. Nam Tông lấy ngày Rằm tháng Sáu, ngày Đức Phật
Chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển, làm ngày bắt đầu An Cư Kết Hạ, trong khi
Bắc Tông lại chọn ngày Rằm tháng Tư làm ngày bắt đầu mùa An Cư. Sự khác
biệt của các ngày Vía và ngày An Cư phải chăng một phần đến từ sự khác
biệt của thời tiết và mùa màng địa phương? Các nước Phật giáo thời bấy
giờ đều là xã hội nông nghiệp, sử dụng lịch tính theo tuần trăng. Khi
đạo Phật truyền sang Tây Phương, thì chư tăng các nước này lại có khuynh
hướng chọn mùa Đông làm mùa An Cư, bởi vì đó chính là lúc thời tiết
khắc nghiệt nhất, bất tiện cho việc du hành.
Cậu bé Siddharta bảy tuổi ngồi thiền dưới cây Jambolan
Một
hôm, theo truyền thống hoàng gia, nhà vua phải thực hiện lễ cày đất ở
ngoại thành Kapilavtthu. Siddharta được đi theo cha. Cậu bé ngồi nhìn
diễn tiến buổi Lễ dưới một gốc cây mà trong Patåhamasambodhi nói là cây Jambupikkha, hay còn gọi là cây Jambolan hay Kala Jam (cây Hồng Quân?)
Câu
chuyện được diễn tả một cách thi vị: Cây “được phú những nhánh sum suê
như rặng núi Indanil với tàng toả rộng một khoảng im mát... Trái tim
trong sáng của hoàng tử, được phú một khả năng thành Phật trong tương
lai, đã chuyển sang trạng thái tĩnh lặng và đi vào Định (samadhi) một
cách tự nhiên, đó là trạng thái Sơ Thiền (jhana.)
Vào
xế trưa, khi lễ cày đất đã hoàn mãn, thị vệ chạy đi tìm hoàng tử, họ đã
nhìn thấy bóng cây Jambolan mà hoàng tử ngồi bên dưới vẫn còn dừng lại ở
vị trí của lúc chính Ngọ chứ không dịch đi theo sự chuyển vận của mặt
trời.”
Cây Jambolan (Syzygium jambolanum, Hồng Quân?)
Bảy tuần lễ ở làng Uruvela (nay là Bồ Đề Đạo Tràng – Bodhgaya)
Theo Nam Tông, Bụt
thành đạo dưới cây Bồ Đề tại Uruvela vào ngày Vaisakha Poornima, ngày
trăng tròn trong khoảng tháng Tư - Năm Dương Lịch. Truyền thuyết kể rằng
sau khi thành Đạo, Ngài đã ở lại làng Uruvela (khu vực Bồ Đề Đạo Tràng)
7 tuần để hành thiền và điều phục các căn. Trong thời gian đó, Ngài đã
ngồi dưới cây Bồ Đề và một vài cây khác. Các văn kiện ghi chép về thời
gian bảy tuần này không thống nhất các chi tiết như thời điểm v.v..,
nhưng chúng ta hãy thử ghi lại ở đây những điểm cốt yếu. Chúng ta cũng
nên nhớ rằng bảy tuần lễ có thể là một biểu tượng (ẩn dụ) hay một phương
tiện để trình bày giáo lý hơn là một câu chuyện lịch sử có thật.
Tuần thứ nhất
Trong tuần đầu, Đức Phật ngồi dưới cây Bồ Đề (Ficus religiosa)
và giác ngộ ở đây. Trước khi thành Đạo, Ngài đã nhận bát đề hồ (kheer)
từ cô gái chăn cừu Sujata. Cũng tại đây, Ngài đã chiến đấu với Mara,
chúa tể của sự Chết và Dục Vọng (thèm khát.) Thách thức cuối cùng của
Mara là nghi ngờ về lời tuyên bố giác ngộ của Ngài. Đức Phật đã gọi Bà
Mẹ Đất đến chứng minh cho sự thực ấy. Nữ Thần Đất đã hiện lên, và giúp
Ngài quét sạch đội quân Ma.
Nơi Đức Phật ngồi,
dưới cội Bồ Đề, được gọi là “Toà Chánh Giác.” Vua A Dục, một Phật tử
sùng Đạo, đã dựng lên một toà Kim Cương (Vijrasana) ở đây, nơi được gọi
là “Cái Rốn của Đại Địa.” Cành giâm của con cháu cây Bồ Đề nguyên thỉ đã
được trồng gần đó.
Đức Phật thành Đạo khi trời vừa hửng sáng. Người ta nói rằng khi đó chư thiên trổi nhạc, múa hát để mừng Ngài.
Tuần thứ hai
Nhiều nơi kể rằng đức
Phật ngồi dưới cây Banyan (Ficus benghalensis.) Ngài lại chạm trán Mara
qua ba người con gái của y, với tên gọi: Tanha (Ái Dục), Arati (Bất Mãn) và Raga (Tham Vọng.)
Không một cám dỗ nào có thể làm dao động thiền định của Ngài.
Cây Banyan mà Ngài ngồi còn được biết với tên ‘ajapalanigrodha’, ‘ajapala’ có nghĩa là ‘chỗ của những người chăn dê’ và ‘nigrodha’ có nghĩa là ‘câyBanyna.’ Theo
truyền thuyết, cây đa này là nơi những người chăn dê trong vùng thường
ngồi nghỉ trong khi thả cho bầy dê ăn cỏ. Cây banyan theo hình dạng và
cách đâm rễ (thòng xuống từ thân) có lẽ chính là cây đa.
Lá và quả Banyan
Có những nơi khác kể rằng Đức Phật đã đứng nhìn cây Bồ Đề không chớp mắt trong tuần thứ hai và đi đến cây Banyan sau này.
Cây Banyan (Ficus benghalensis)
Tuần thứ ba
Chúng ta có vài thuyết khác nhau. Có nơi nói Đức Phật ngồi gần hồ Mucalinda trong khi chỗ khác lại nói sự kiện này xảy ra vào tuần thứ 6.
Khi
ấy có bão tố sấm sét lớn và mưa tuông xối xả trong suốt bảy ngày liền.
Rắn chúa ‘Muchalinda’ từ dưới hồ bò lên quấn quanh thân Đức Phật vài
vòng và ngóc đầu lên làm một cái lọng che cho Ngài trong suốt thời gian
đó.
‘Cuộc đời Đức Phật qua Hình Ảnh’ trên www.budsir.org giải thích Mucalinda là một loại cây, nguyên văn như sau:
.
“Mucalinda là một loại cây phổ biến ở Ấn Độ, xuất hiện nhiều trong văn
chương Ấn như các tác phẩm Jatakas và nhiều tác phẩm khác. Trong
Vessantara Jataka, mucalinda là cây mà Bồ Tát thường lui tới khi bị đày
trong rừng.”
.
“Cây mucalinda ở Thái Lan gọi là cây ‘jik.’ Có vẻ đúng, vì hai cây đều
mọc ở những chỗ ẩm như bờ sông, gần bờ hồ, cả hai đều có màu trắng và
đỏ. Lá cây lớn như lá cây gioi (rose-apple, miền Trung gọi là cây đào,
miền Nam gọi là cây mận.) Lá non có vị the, ngon thường dùng như một
loại rau sống chấm với tương ớt. Vị cũng giống như vị lá cây gioi
(rose-apple.) Cây thường có lá dày cho nhiều bóng mát.”
Chưa
có dịp thấy cây jik của Thái Lan, chúng tôi không biết cây ‘jik’ có
phải là cây Lý hay không? Mucalinda như vậy có lẽ là một giống mận Ấn
Độ.
Người
ta bảo con rắn quấn quanh Đức Phật bảy vòng. Trong một số hình, con rắn
này có bảy đầu. Rắn thường không phải là một hình tượng được ưa chuộng,
nhưng rắn là một biểu tượng cổ về nội lực -- sức sống có chiều sâu và
sự phong phú. Những loài tử tế từ đáy hồ đi đến thường là biểu tượng của
sự hoà điệu tuyệt hảo hay trực giác.
Những
con rắn thần thoại từ ngàn xưa vốn thường đi kèm với cây. Không chỉ như
một tiếng nói cám dỗ trong trường hợp con Rắn vườn Địa Đàng, mà thường
là bạn của cây.
Cây
và Rắn là những loài có những phẩm chất đóng vai trò hoạch định ‘tình
trạng của thế giới’ và sự lưu chuyển năng lượng của thế giới.
Đức Phật đã an trú trong Đại Định, không dao động trước bão tố, sự rung chuyển từ bên trong hay bên ngoài.
Hình ảnh Đức Phật được bảo hộ bởi con rắn cũng là một bài học gián tiếp về lợi ích của sự phát triển lòng từ bi.
Tuần thứ tư
Đức Phật ngồi thiền
dưới cây Rajayatana quán Lý Nhân Duyên. (Có nguồn nói Ngài ngồi dưới gốc
cây này trong tuần thứ bảy.) Trong khi an trú trong Định, người Ngài
toả ra sáu lằn ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, cam và tổng hợp của các
màu này. Lá cờ Phật giáo quốc tế được thiết kế dựa theo những màu này.
Hai thương gia từ Miến
Điện đi xe ngang qua đó, nghe về Ngài bèn đến cúng dường thực phẩm
nhưng Ngài không có bát để nhận. Tứ Thiên Vương -- bốn vị trời hộ thế --
đã mang bát đến cúng dường Ngài. Bụt nhận bốn cái bát và chú nguyện cho
chúng biến thành một. Hai thương gia này đã trở thành hai đệ tử tại gia
đầu tiên của Bụt.
Cây Rajayatana (tiếng Thái là Mai Ket) có tên khoa học là Buchanania latifolia – Anacardiaceae -- thuộc họ Điều Lộn Hột:
“Cây cao trung
bình, mọc ở Ấn Độ, Myanmar, Laos, Thailand, Việt Nam, Yunna. Quả màu
đen, có một hạt hình dạng trái lê, dài 1cm, nhiều dầu, ăn được, giống vị
hạt hạnh nhân và pistachio (hồ trăn) – thỉnh thoảng nhập vào châu Âu
gọi là ‘almondettes’, ăn sống hay rang lên, hoặc bỏ trong mứt, được giã
ra làm bánh ở Ấn Độ, hạt được làm dầu thế cho dầu almond hay olive; vỏ
cây và trái dùng làm véc ni (sơn dầu); vỏ cây cũng dùng để làm thuộc da;
chất gôm (chảy từ cây) là dược liệu cổ truyền để trị bệnh phong hủi,
phỏng, bệnh tả, bí tiểu, sốt nhiệt, sưng lợi, lao phổi; gỗ dùng làm củi,
cây được trồng để chống sự xói mòn. Nhân có 51.8% dầu, 12.1% đạm, 21.6%
tinh bột, 5% đường. (Theo dữ liệu của UN-FAO (Tổ chức Lương Thực và Nông Nghiệp của Liên Hiệp Quốc.))
Chúng tôi tham khảo thêm các tự điển thực vật về cây Buchanania latifolia
và thấy trái cây này khi còn non có màu xanh. Theo những mô tả này thì
cây Rajayatana có thể là cây dầu lai, vốn có trái nhỏ màu xanh khi còn
non, đến khi già thì đổi sang màu đen. Ở Huế - Việt Nam, hạt dầu lai
thường dùng để thế dầu ăn.
Có những nguồn khác, nói cây Rajayatana còn gọi là Kiripalu, với cùng tên khoa học là Buchanania latifolia
(ở Bồ Đề Đạo Tràng có di tích cây Rajayatana này.) Chúng tôi tra cứu và
chỉ thấy có cây Kripalu mà thôi, cây Kripalu tức là cây kè. Như vậy
thuyết đồng nhất cây Kiripalu với cây Buchanania latifolia có thể đã không đúng.
Tuần thứ năm
Đức Phật trở lại cây Banyan (Ficus benghalensis -- Hồng Quân?.)
“Ngài quán chân đế mà
Ngài đã chứng ngộ. Nhận thấy chân lý này thật thâm diệu, Ngài không muốn
dạy vì không biết có ai có khả năng hiểu được giáo pháp này hay không.
Một phần trong Ngài có khuynh hướng bằng lòng (với sự giác ngộ của mình)
và không muốn nhọc công giáo hoá.”
Vua Trời Phạm Thiên
Sahampati biết được tư tưởng đó rất lo lắng, than lớn ba lần: “Thế gian
mất mát lớn.” Pathamsambodhi viết rằng: “Âm thanh đó vang khắp vạn thế
giới. Phạm Thiên Sahampati cùng với chư thiên đồng đến thỉnh Bụt giảng
dạy Chánh Pháp.” Trời Phạm Thiên có thể là lòng từ bi của đức Thế Tôn,
không nỡ bỏ chúng sinh.
Một trong những lời
rất đẹp mà Đức Phật đã dạy là: một người trở nên cao quý hay thấp kém là
do ba nghiệp của họ, chứ không phải do nơi chốn mà họ sinh vào. Đây là
một lời khẳng định cấp tiến trong một xã hội quá khắt khe trong vấn đề
giai cấp.
Tuần thứ sáu và bảy
Từ tuần thứ sáu cho
đến tuần thứ tám sau khi thành Đạo, Đức Phật đã qua lại giữa cây Đại
Giác (Bồ Đề) và cây Đa Mục Đồng (banyan.)
Có vài nơi nói rằng
Ngài đã ngồi dưới cây Muchalinda trong tuần thứ sáu và dưới cây Rajayata
trong tuần thứ bảy (xem lại tuần thứ ba và thứ tư.)
Bụt bắt đầu quán xem
Ngài phải giảng dạy Chánh Pháp như thế nào, và Ngài quyết định bắt đầu
từ năm người bạn đồng tu khổ hạnh ngày xưa.
Những cây cỏ khác
Trong suốt bốn mươi
lăm năm hoằng hoá suốt lưu vực sông Hằng (Ganges) và vùng chân núi Hy Mã
Lạp Sơn, Đức Phật đã sống rất nhiều trong rừng. Cây thường được nhắc
đến trong Kinh điển.
Dường như những cái cây này đã được trân quý, công nhận sự có mặt. Chúng ta có thể kể thêm một số cây sau:
. Tu viện Phật giáo đầu tiên là khu rừng Tre, do vua Bimbisara cúng dường.
. Tăng đoàn thường an cư trong rừng, chẳng hạn khu rừng Xoài của y sĩ Jivaka.
. Và, bao nhiêu cây khác cung cấp thực phẩm và dược liệu cho Bụt và các vị khất sĩ theo Ngài.
Chúng ta cũng nhớ
đến bó cỏ kusa Bụt dùng để trải toạ cụ ngồi trước khi thành Đạo. Cỏ kusa
(hay kusha) còn có tên là Durba (Darbha) hay halfa, tên khoa học là Eragrostis cynosuroides hay còn gọi là Desmostachya bipinnata, có thể
cao từ đến 50-100cm, thường được dùng để dệt chiếu. (Tự điển Phật Học
của Trần Nguyên Trung gọi là Kosa S) hay Kosajja (P) có thể không đúng
vì Kosajja có nghĩa là dãi đãi.) Cỏ kusa tên Việt Nam có lẽ là cỏ cói
(dùng vì cả hai đều có mùi thơm như sả, chiều cao và công dụng cũng
tương đương.
Còn bao nhiêu cây khác
cũng gắn bó cuộc đời Đức Phật đã theo các thương nhân và tu sĩ Ấn Độ du
nhập vào nước ta khoảng đầu thế kỷ thứ 2 như cây bông sen, cây hoa
lài, cây mít. Theo GS Trần Quốc Vượng, cây bông sen (Nelumbo nucifera, họ Nelumbonaceae)
là phiên âm từ tên tiếng Phạn sengora (người Nhật gọi bông sen là
sengo); cây hoa lài (ban đầu gọi là m-lai) là từ tên malika (Tàu gọi là
Mạt Lị Hoa); cây mít là từ tên paramita (Tàu gọi mít là trái Ba La Mật.)
Tên phiên âm của các cây này đã được Việt hoá, trở nên gần gũi thân
thương, khiến chúng ta gần như không còn nhớ đến xuất xứ của chúng.
Đạo Phật đã thấm vào
nếp sống của Việt Nam, tạo nên một nền văn hoá nhân hậu, phóng khoáng,
có tình với cỏ cây. Một bà cụ ra vườn thấy cành cây gãy cũng xuýt xoa.
Liệu rằng với đà phát triển kinh tế toàn cầu, con người sống gần lại với
nhau trong một cộng đồng thế giới, chúng ta có còn nhớ đến bài học mà
ông cha chúng ta đã trao truyền lại qua các tích xưa và nếp sống hằng
ngày? Chúng ta có còn thì giờ để gần gũi, thương yêu và kính trọng cỏ
cây hay không? Tiêu thụ ít lại, sống giản dị hơn để con cháu chúng ta và
các loài khác còn sinh môi để sống. Bà mẹ thiên nhiên đã lên tiếng nhắc
nhở chúng ta rồi.
Tài Liệu Tham Khảo:
- Phần lớn tài liệu được lấy và dịch từ ‘Buddha and Trees’ của Anna trên trang www.the-tree.org.uk
- An illustrated Life of the Buddha trong trang www.budsir.org
- Lịch sử Phật Giáo Việt Nam I của Lê Mạnh Thát
- ‘Cây cối trong cuộc đời Đức Phật’ của Võ Quang Yến
- Họ ‘Caesalpiniaceae ‘ của Dr. Gerald (Gerry) Carr trong www.botany.hawaii.edu
- tự điển Pali-English của A.P. Buddhatta Mahathera
- ‘Trong Cõi’ của Trần Quốc Vượng, NXB Văn Nghệ
- và các hình ảnh, tài liệu, tự điển về thực vật, thắng tích khác
TN Chân Giải Nghiêm