biết phụng dưỡng cha mẹ bằng điều lành và làm những gì tốt
nhất, cần thiết nhất cho cha mẹ. Cụ thể là chăm sóc đời sống tinh thần, tâm
linh của cha mẹ; hướng cha mẹ đến với điều thiện, điều lành và tránh xa điều
xấu ác, bất thiện; giúp cha mẹ tạo nhân duyên lành mang lại an lạc, hạnh phúc
cho đời này cùng đời sau3.
Đức Phật dạy, người con biết hiếu thảo chẳng những đáp đền
được công ơn cha mẹ mà còn tạo được nhiều phước báo cho mình nhờ những việc làm
hiếu thảo đối với cha mẹ. Đức Phật khen ngợi người con hiếu thảo như sau: Người
nào biết hiếu thảo với cha mẹ, người đó xứng đáng được cúng dường, được tôn
kính ngang bằng với trời Phạm Thiên, được xem như các bậc Đạo sư ở đời4.
Và Ngài cho biết: Thờ cha mẹ đúng pháp, buôn bán đúng, thật thà. Gia chủ không
phóng dật, được sinh Tự Quang thiên5. Ở đây, người con biết
tôn kính, phụng dưỡng cha mẹ đúng pháp; làm ra của cải vật chất bằng điều
thiện, bằng nghề nghiệp, công việc chơn chánh để nuôi dưỡng, chăm lo cho cha
mẹ; sống lương thiện, hữu ích để cha mẹ được an tâm, vui lòng, người con hiếu
thảo như thế sau khi chết sẽ được sinh về cõi Tự Quang thiên.
Bên cạnh việc chỉ rõ cho mọi người hiểu biết đầy đủ, sâu sắc
về công ơn cha mẹ, dạy người làm con phải biết hiếu thảo với cha mẹ như thế nào
mới là đủ để đáp đền công ơn cha mẹ6, Đức Phật còn chỉ rõ quả báo
của hành vi bất hiếu và cho biết đó là một đại tội, Ngài cảnh báo mọi người
không nên phạm phải: Điều lành cao tột chẳng gì bằng hiếu, điều ác cùng cực
chẳng gì bằng bất hiếu7.
Nếu hiếu thảo được người đời ngợi khen, được bậc Thánh khuyến
khích và đem lại nhiều phước báo cho người con, thì bất hiếu bị người đời chê
trách, lên án, kết tội. Hành vi bất hiếu cũng khiến người con mất đi nhân phẩm,
đạo đức và bị tổn giảm phước báo, tùy mức độ bất hiếu mà tổn giảm phước báo
nhiều hay ít, thậm chí tạo thành nghiệp cực ác dẫn đến địa ngục, đọa xứ. Hiếu
thảo và bất hiếu đều không nằm ngoài phạm vi nhân quả.
Vào thời Phật tại thế, thái tử A Xà Thế nghe theo lời xúi
giục của Đề Bà Đạt Đa âm mưu cướp ngôi và bắt giam vua cha là Bình Sa vương,
rồi hành hạ vua cha cho đến chết. Vì tội bất hiếu ấy mà về sau ông lại bị chính
con mình cướp ngôi và giết chết. Quả báo không chỉ có thế, dù cuối đời A Xà Thế
tỉnh ngộ và quy y Phật, trở thành một Phật tử tại gia hộ trì Tam bảo đắc lực,
nhưng sau khi chết ông vẫn tái sinh vào khổ cảnh, vì nhân lành ông gieo chưa đủ
duyên để trổ quả trong khi ác nghiệp lại quá lớn8.
Còn Tôn giả Mục Kiền Liên, vị Đại đệ tử thần thông đệ nhất
của Phật, trong một kiếp quá khứ xa xôi đã nghe theo lời người vợ độc ác mà âm
mưu ám hại cha mẹ. Chính vì hành vi đại nghịch, cực ác đó mà Tôn giả phải thọ
quả báo khổ trong một thời gian dài, và trong kiếp cuối cùng, dù đã tu hành
chứng Thánh quả A-la-hán, vẫn phải tiếp tục chịu quả báo bị ngoại đạo lõa thể
giết chết9.
Trong kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni có thuật lại
một trường hợp về quả báo của tội bất hiếu như sau:
“Có một vị thiên tử ở cõi trời Đao Lợi tên là Thiện Trụ, ông
biết mình sắp hết phước báo và phải bảy lần đọa làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ
uế. Sau bảy lần đọa làm cầm thú lại bị đọa địa ngục chịu khổ trải qua nhiều
kiếp mới được làm người. Nhưng khi được thân người lại phải mang hình dung
tướng mạo đen lùn, xấu xí, mù cả hai mắt, các căn không đủ, hơi miệng hôi hám,
nghèo khó hèn hạ, đói khát khổ sở, ai thấy cũng gớm ghiếc lánh xa. Biết thế
Thiện Trụ rất đỗi kinh hoàng, đêm ngày lo sợ, không biết vì nguyên nhân gì mình
phải chịu quả báo nặng nề như thế. Ông bèn đến bái kiến Thiên đế Thích Đề Hoàn
Nhơn cầu xin cứu giúp.
Thiên đế dùng thiên nhãn nhìn thấy sau khi Thiện Trụ hết
phước sẽ đọa làm thân heo, sau thân heo lại thọ thân chó, hết thân chó lại thọ
thân chồn, hết thân chồn lại thọ thân khỉ, rồi thân rắn, thân kên kên, thân
quạ, trong bảy kiếp làm cầm thú ấy thường ăn những đồ nhơ uế. Thấy thế, Thiên
đế nghĩ: Thiên nhãn của ta chỉ thấy biết ít phần, không thể hiểu được những
nghiệp nhân sâu xa. Chỉ có Đức Như Lai là bậc Chánh biến tri mới có thể hiểu
thấu suốt tất cả nhân quả thiện ác. Và cũng chỉ có Đức Như Lai mới có thể cứu
Thiện Trụ thiên tử ra khỏi vòng khổ ách. Ta nên đến thỉnh cầu Ngài cứu giúp.
Rồi Thiên đế Thích Đề Hoàn Nhơn cùng Thiện Trụ thiên tử và
chư thiên xuống bái kiến Đức Phật, trình bày sự việc và thỉnh cầu Đức Phật cho
biết Thiện Trụ thiên tử đời trước tu phước chi mà được hưởng sự vui nơi cõi
trời? Tạo nhân gì mà sau khi hết phước cõi trời phải bảy lần đọa làm thân cầm
thú, ăn đồ bất tịnh, rồi thọ sự khổ nơi địa ngục, sự hèn hạ, xấu xí nơi cõi
người?
Đức Phật đã cho Thiên đế và chúng hội biết, vào thời Đức Phật
Tỳ Bà Thi có hai mẹ con nhà nghèo sống bằng nghề làm ruộng. Cha đứa bé chết
sớm, từ nhỏ tới lớn đứa bé sống với mẹ, hàng ngày lo việc cày cấy trồng trọt
ngoài đồng. Một hôm đứa con làm việc ngoài đồng đến trưa mà chưa thấy mẹ đem
cơm ra cho mình, vừa mệt lại vừa đói nên trong lòng nổi lên sân hận, nó dùng
lời ác độc mắng mẹ rằng: ‘Mẹ còn thua loài súc sinh! Con heo, chó, chồn, khỉ,
rắn, kên kên, quạ còn biết thương và chăm lo cho con của nó, còn bà lại để tôi
đói khát như thế này’. Đứa con chửi mắng, nguyền rủa mẹ mình một lúc thì bà mẹ
mang cơm ra đến nơi, bà nói lời an ủi và cho biết vì bận nhiều việc nên bà đem
cơm trễ.
Đứa con vui vẻ trở lại, ngồi xuống định dùng cơm thì thấy
giữa hư không có vị Phật Bích Chi đi qua. Nó sinh lòng kính ngưỡng đứng lên
chắp tay cúi đầu đảnh lễ và cúng dường phần cơm của mình cho vị Phật Bích Chi.
Sau đó ít lâu người con xuất gia. Trong một buổi lễ nọ, có người phát tâm cúng
dường tô du và sữa đặc. Người con nay đã là Tăng trong chùa, vì hiềm khích với
chúng Tăng mà không lấy tô du và sữa đặc ra thết đãi. Có người hỏi thì ông trả
lời: Bộ mấy người đui mù hết sao? Có tô du và sữa đâu mà bảo tôi dọn ra. Nếu
muốn đòi thêm thì chỉ có phẩn và nước tiểu để cho các người ăn mà thôi.
Đứa con trai đó chính là Thiện Trụ thiên tử bây giờ, do kiếp
trước hờn giận dùng lời ác gọi tên bảy loài cầm thú mắng mẹ, nên phải chịu quả
báo bảy phen làm cầm thú. Do khi làm Tăng thốt lời nhơ uế mắng nhiếc chư Tăng
nên nghiệp cảm thường ăn đồ bất tịnh. Do tham, sân, bỏn sẻn giữ riêng thức ăn
của hiện tiền Tăng nên bị quả báo địa ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp
người. Do mắng chư Tăng là đui mù nên nhiều đời phải bị mù đôi mắt, sống trong
cảnh tối tăm và chịu nhiều khổ não. Nhưng do kiếp trước phát khởi tâm lành,
cung kính cúng dường vị Phật Bích Chi mà được sinh lên cõi trời hưởng sự vui
thắng diệu.
Thiện Trụ thiên tử nghe Phật nói rõ nhân duyên của quả báo
khổ, quả báo vui mà mình phải nhận lãnh, ông hết sức ăn năn tự trách, bèn đảnh
lễ Phật cầu xin sám hối. Đức Phật dạy, Thiện Trụ thiên tử chỉ vì nóng giận mắng
mẹ và chư Tăng mà tổn giảm phước báo ở cõi trời, phải chịu thân cầm thú, địa
ngục. Cho nên đối với cha mẹ và chư Tăng phải tôn trọng và cung kính, thường
nhớ nghĩ đến ân đức chứ không nên khinh hủy”.
Hiếu thảo là đạo đức làm người,
là nhân sinh về cõi trời, là hạnh của chư Phật, cho nên: Điều lành cao tột
chẳng gì bằng hiếu, điều ác cùng cực chẳng gì bằng bất hiếu10.
Minh Hạnh Đức (GNO)
1 Từ Bi Đạo
Tràng Mục Liên Sám Pháp
2 Kinh Tăng
Chi Bộ I
3 Kinh Tăng
Chi Bộ I
4 Kinh Tăng
Chi Bộ I
5 Kinh
Nipata
6 Kinh Phật
thuyết báo hiếu phụ mẫu trọng ân, Phật thuyết Vu lan bồn
7 Kinh Nhẫn
nhục
8 Lịch sử
Đức Phật Thích Ca
9 Đức Phật
và Phật pháp
10 Kinh Nhẫn nhục